Nhân nào quả ấy

Nhân nào quả ấy NXB Phụ nữ H, 2006

LỜI DẪN

Báo chí hàng ngày một vài năm gần đây đầy rẫy những bài vở tin tức có liên quan tới các hiện tượng mà ta quen gọi là tiêu cực xã hội: Đó là ăn cắp, tham nhũng, hối lộ làm hàng giả, gian lận, dối trá. Là chơi bời hưởng lạc lãng phí. Là tham lam vụ lợi, làm bất cứ việc gì có thể làm miễn sao có tiền, – triết lý thực dụng này mở đường cho cách sống vô cảm tàn nhẫn lan ra trên phạm vi rộng. Đó cũng là tình trạng mất lòng tin sâu sắc dẫn đến mê tín dị đoan, và mở rộng ra là hiện tượng tha hóa, tức tự mình thấy mình bị làm hỏng, mình đang xấu đi, – một điều chắc chắn khiến cho những người còn chút lương tri cảm thấy có lỗi mà không biết cách nào thay đổi.

Nhiệm vụ của báo chí là đưa các hiện tượng ra ánh sáng.

Văn chương – trong nghĩa cao đẹp của nó – đảm nhiệm một việc khó khăn hơn là lôi cuốn con người vào việc suy nghĩ và lý giải các hiện tượng nói trên, từ chiều sâu của kinh nghiệm lịch sử và văn hóa,

Là một người viết văn, tôi cũng muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công việc lớn lao đó. Trước khi đưa vào sách, các bài sau đây đã in trên các báo Thể thao & văn hóa, Nông thôn ngày nay, Văn nghệ, Người lao động, Văn hóa, Tuổi trẻ…

Xin phép được nói qua về nhan đề của cuốn sách, Theo các từ điển Phật giáo, thì nhân là cái có thể sinh ra cái khác (năng sinh), mà quả là cái được sinh ra (sở sinh). Chuốc quả là nhân, thu được là quả. Giáo lý đạo Phật cũng nói Chân quả nhất như, từ đó dẫn tới câu tục ngữ mà chúng ta hay nói: Nhân nào quả ấy. Xét ở phạm vi hẹp của thế giới lượng tử thì câu nói đó còn quá thô thiển, thường thì nhiều nguyên nhân mới sinh ra một kết quả mà một nguyên nhân lại sinh ra nhiều kết quả. Bởi vậy, có khi nhân đi một đằng mà quả đi một nẻo. Song xét trên đại quát thì cái sự nhân nào quả ấy vẫn hết sức chính xác. Sở dĩ các thói tật không dễ gạt bỏ bởi nó vốn có gốc rễ sâu xa thâm căn cố đế trong quá khứ lịch sử. Đã đến lúc chúng ta phải vượt lên trên những huyền thoại mang tính cách ảo tưởng để tự nhận thức về mình sâu xa hơn. Muốn thay đổi hoàn cảnh, ta phải tính chuyện thay đổi chính ta trước.

Bạn đọc thân mến, rất mong nếu bạn đã có lần cầm tới cuốn sách thì xin bớt chút thời giờ đọc tới trang cuối, và hiểu cho cả những điều người viết chưa kịp trình bày trên mặt giấy.

TÁC GIẢ

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG

TẠI SAO CÓ NẠN CHÙA GIẢ?

Nhân nào quả ấy (tục ngữ)

Khoảng từ những năm tám mươi lăm, tám mươi sáu trở đi, những người có dịp lên Đà Lạt đều biết một trong những địa điểm dạo chơi thú vị là Trúc Lâm thiền viện. Đó là một ngôi chùa mới dựng, song được đặt giữa một không gian thoáng đãng, có đồi cao, có khe nước rộng, bản thân kiến trúc ngôi chùa cũng được tính toán công phu, có cốt cách riêng. Hiện đại mà vẫn cổ kính, đáng được liệt vào danh mục các địa điểm phải ghé thăm khi đến Đà Lạt.

Mỗi lần nhớ tới ngôi chùa này, tôi thường nghĩ: thời đại chúng ta rồi cũng phải làm thêm ra nhiều công trình văn hóa mới, góp phần riêng của mình vào kho tàng danh lam thắng cảnh của đất nước. Chùa là một dạng công trình nên được nghĩ tới đầu tiên.

Điều trớ trêu là trong khi những ngôi chùa có giá trị văn hóa như thế chưa thấy đâu, thì nạn làm bừa làm ẩu đã hoành hành, nhiều “công trình” vừa xuất hiện, đã được gọi đích danh là hàng giả, mà một số chùa giả, động giả ở khu vực Chùa Hương chỉ là ví dụ.

Ngay khi nghe nói đến nạn di tích giả, nhiều người đã lập tức lên án kẻ bất lương lợi dụng lòng hướng thiện chính đáng của mọi người để kiếm lời. Sự phản ứng đó là cần thiết và tự nhiên. Ở đây, tôi chỉ muốn đặt thêm ra vài câu hỏi. Bên cạnh cái lỗi của những người làm chùa giả, động giả đó, đâu là cái lỗi của mỗi chúng ta? Đằng sau công việc thô thiển của người dân sở tại, đâu là cái quan niệm chung mà nhiều người chúng ta đã ngấm ngầm tán đồng và khuyến khích nó phát triển? Và tại sao việc đấu tranh để xóa bỏ các loại di tích rởm đó sẽ còn là vất vả trầy trật?

Trước sau rồi sẽ xảy ra!

Không chỉ những người chuyên lo theo dõi việc bảo tồn và phục hồi di tích mà gần như mọi người đều biết rằng hiện đang có phong trào dân các địa phương thi nhau xin công nhận di tích, đưa chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ… nơi mình ở vào danh sách được Nhà nước xếp hạng.

Ngoài miệng, hoặc trên giấy tờ, ai cũng lưu ý tới ý nghĩa văn hóa: khi các di tích mang lại cho địa phương một vầng hào quang vinh dự, nó chứng tỏ đây là đất địa linh nhân kiệt và người dân biết giữ gìn nếp cũ. Nhưng trong bụng thì từ các cấp có thẩm quyền đến người dân thường đều ngầm hiểu với nhau rằng khi một khu di tích đi vào hoạt động, tức là một địa điểm du lịch được khai trương, khách thập phương sẽ đổ về thăm thú, và một cơ may làm ăn sẽ đến với nhiều người. Không có báo chí nào điều tra, song ai cũng biết một bộ phận dân các vùng có di tích ít năm nay giàu hẳn lên, thu nhập từ việc chạy chợ bên cạnh di tích chắc chắn là cao hơn nhiều so với làm ruộng. Một khi “hơi đồng” đã bén, mấy ai còn nghĩ đến di tích như một địa điểm văn hóa nữa, mà chỉ còn biết xem nó như một mỏ tiền khai thác không bao giờ cạn kiệt (!).

Nhưng như thế tức là ở đây, ngay từ đầu, trong việc đưa di tích đến với xã hội, yếu tố lập lờ nước đôi, nói một đằng hiểu ngầm với nhau một nẻo đã xuất hiện, và cái sự đi đêm ấy mở đường cho nhiều hoạt động giả dối tiếp tục nảy nở. Một quy luật của thị trường (nhất là thị trường ở Việt Nam, tồn tại theo kiểu Việt Nam) là dễ nảy sinh hàng giả. Những người có đi chùa Hương đều biết rằng có một món quà lưu niệm dân ở đây hay mang bán là phong lan. Như bản thân tôi, mấy lần mua phong lan ở đây về thì từng ấy lần bị lừa, cành nọ buộc tạm vào cành kia, đi một quãng là các mối buộc rời ra hết. Quà lưu niệm đã giả còn nói chi đến nước giải khát giả, kẹo bánh giả, rồi lá số giả, tờ sớ giả vẫn bán với giá cắt cổ.

Cho qua mọi thứ của giả “lặt vặt” như thế, người ta có biết đâu mình đã góp phần nuôi dưỡng ý đồ làm chùa giả, động giả nó chín dần trong đầu óc những kẻ muốn “làm ăn lớn”.

Có sự góp sức cả từ hai phía

Sự thiêng liêng bị pha tạp – có thể không sợ hàm hồ mà nói về phong trào đi hội hiện đang rầm rộ như vậy. Bên cạnh những người đến với lễ hội với tình cảm tôn nghiêm và có suy nghĩ, thì còn không ít người đi theo kiểu đua đả, hoặc ngấm ngầm tính chuyện cầu lợi, đặt việc cúng bái cao hơn mục đích tham quan và hiểu biết. Đã gọi đua đả tức ăn theo, học đòi, không có hiểu biết gì chắc chắn về mảnh đất mà mình bỏ công thăm viếng. Còn đi để xin lộc thì chỉ cần có chỗ thắp hương, và trình ra món lễ vật hậu hĩnh, còn chùa chiền hang động thế nào cũng được! Cả hai loại người này gặp nhau ở sự dễ dãi vô nguyên tắc. Bằng cách đó, họ trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ kinh doanh đồ giả. Với tính nhạy cảm của kẻ sống bám vào di tích, đám người chuyên đứng ra làm công việc gọi là phục vụ người đi hội này hiểu rằng đối tác của mình chẳng có gì đáng trọng, đứng trước di tích, họ chỉ thuộc loại gà mờ, dễ bị bịp. Nói ra thì hơi quá, song suy cho cùng, phải thấy sự dễ dãi và kém hiểu biết của dân đi hội đã là một sự mở đường, sự tiếp tay để một số người ở địa phương đi xa mãi trong hành động giả dối trục lợi.

Tìm đâu khả năng từ chối

Thế nhưng, trước việc một niềm tin thiêng liêng bị xúc phạm, một số người lại có thái độ hờ hững đến khó hiểu. Đại khái, chúng ta chỉ hiện ra như một kẻ nhẹ dạ và vô trách nhiệm: lơ đãng nghe bằng nửa tai. Mỉm cười, chẳng ra vẻ tán thành mà cũng chẳng phản đối. Coi như chuyện “bình thường”, chuyện không có gì phải làm ồn lên. Tiếp tục tò mò vào xem mấy thứ hàng giả ấy ra sao rồi cười thầm và khuyên người khác cũng nên vào xem cho vui. Đến như cái chuyện cúng bái thì cách giải quyết mới lại thật giản dị: nghĩa là nghĩ bụng đã mang đồ lễ đến đây thì chẳng nhẽ mang về, âu là gặp chỗ thanh vắng, ít người chen chúc, hãy hóa giải như đã định, biết đâu gặp giờ thiêng, trời phật lại phù hộ! Thế là khôn ngoan ở những đâu, đến đây người ta chỉ còn là những kẻ lành hiền, nhẫn nhịn. Khỏi phải nói, sự thờ ơ cũng như việc thiếu khả năng từ chối như thế của khách thập phương chỉ làm cho việc triệt phá hàng giả và lập lại trật tự khốn khó bội phần, thậm chí, đã có người dự đoán “để lâu… hóa bùn”, không biết chừng rồi ra có lúc hàng giả lại thành hàng thật! Điều đáng nói thêm ở đây là cái cách phản ứng nhẹ nhàng như trên chẳng qua chỉ là dấu hiệu của một căn bệnh nặng nề hơn: tình yêu của chúng ta với di tích chùa chiền hang động… chưa phải là thứ tình yêu bền chặt dựa trên một sự hiểu biết sâu sắc. Nhất là ta chưa có yêu cầu cao về tính thuần khiết, tính nguyên bản của chúng. Ta dễ dãi với người bởi ta dễ dãi với mình. Sự thờ ơ với cái giả chỉ là một biến tướng của sự thờ ơ với cái thực mà hàng ngày chúng ta giấu kín và che phủ bên ngoài bằng những lời lẽ hoa mỹ.

MẤY CÂY SI VÀ ĐÔI VOI ĐÁ

Đền chùa ở các tỉnh xa thường được đặt trong một cảnh quan rộng rãi thoáng đãng nên đi dạo ở ngoài khuôn viên cũng đã là một niềm vui. Chùa Côn Sơn mấy năm gần đây lại được tu sửa nên khá khang trang. Chỉ hiềm một nỗi ra về tôi cứ thấy thương cho mấy cây đại vốn rất điển hình cho các chùa chiền phương Đông được trồng ngoài sân. Còn nhớ trong những lần đến thăm một số thắng cảnh ở Trung Quốc thấy các cây cổ thụ loại quý đều có gắn một tấm biển ghi rõ cây đã bao nhiêu tuổi. Ngay ở Bách thảo Hà Nội trước năm 1954 nhiều cây cũng có biển ghi tính danh cùng niên đại đính ngay vào thân. Còn trước mấy cây đại ở Côn Sơn, bọn tôi chỉ có cách đứng nhìn rồi đoán già đoán non về tuổi của chúng. Khổ một nỗi nữa là cảnh chèn ép diễn ra trước mắt. Không hiểu từ đâu lạc vào mà mấy thân si tầm thường có mặt ngay giữa sân chùa. Lá si xanh tốt, rễ si khô cứng lùm lòa tranh cướp cả không gian sinh sống, thành thử mấy cây đại kia trở nên côi cút lạc lõng ngay trên mảnh đất vốn dành cho chúng.

Từ Côn Sơn sang đền Kiếp Bạc không xa, và ở đây chúng tôi lại xót xa vì một chuyện khác. Vào nhiều đền chùa bây giờ người ta không khỏi bực mình vì những bức hoành phi câu đối được tu sửa. Màu sắc không phải thứ màu nền nã vẫn thấy ở các đền chùa xưa nay. Mà màu mới tô, khi thì quá xỉn, khi quá lòe loẹt, không hợp với khung cảnh chung. Chữ viết lại xấu, chắc không tìm đâu ra các cụ thạo chữ Hán nên cứ viết đại cho xong, cốt có chữ vuông là được. Đền Kiếp Bạc cũng không ra ngoài thông lệ đó. Đến như đôi voi đá đặt ở sân đền thì lại càng khiến người ta ngao ngán. Chúng trắng phếch như vừa được làm vội và thô thiển như một thứ hàng tầm tầm. Chắc do ai đó mới đặt để công đức cho đền. Di tích là của mọi người, ai cúng vào cái gì mà chẳng thấy quý? Song, trí nhớ tôi mách bảo một cách nghĩ khác: xưa, phải thứ chữ như thế nào mới được mang khắc ở đền chùa, cũng như đồ cung tiến nói chung phải tinh xảo sang trọng như thế nào mới được phép đặt vào những nơi tôn nghiêm. Chỉ có tiền và mong muốn đóng góp chưa đủ. Người xưa hay gọi những nhà có của mà kém về khiếu thẩm mỹ là mấy anh trọc phú đâu có phải oan?

Nay là lúc việc thăm thú di sản đã trở thành một thuần phong mỹ tục, song sau những chuyến đi, tôi cứ thấy ấm ức thế nào. Hồi các di tích đang trong tình trạng tiêu điều còn thấy dễ chịu một phần, trong bụng nghĩ rồi sẽ có lúc mọi người chung lưng làm cho nó đẹp hơn, thiêng liêng hơn, nhiều ý nghĩa hơn. Giờ đây hoạt động trùng tu diễn ra khắp nơi nhưng hình như bàn tay của con người chỉ còn đồng nghĩa với một sự can thiệp thô lỗ hoặc những đắp điếm giả tạo. Nhiều người cho rằng quản lý một danh lam thắng cảnh chẳng có gì khó, ai mà chẳng biết làm, và làm thế nào cũng được, trong khi thực ra công việc ở đây đòi hỏi người ta phải có nghiệp vụ riêng và, đằng sau cái chuyện nghiệp vụ đó, là sự hiểu biết kỹ càng về lịch sử cũng như một quan niệm chắc chắn về văn hóa. Càng đi càng thấy đấy là cái chúng ta đang thiếu và bởi nó, – sự thiếu thốn ấy – là quá phổ biến nên lại chỉ còn có cách tự nhủ rằng ao ước mà làm gì cho thêm tội nghiệp!

Riêng trường hợp mấy cây đại, cùng đôi voi đá còn khiến cho tôi vân vi ra nhiều chuyện khác.

Mang hai hiện tượng đặt cạnh nhau, người ta thấy chẳng qua chúng là hai biểu hiện của cùng một quan niệm nó cũng là cách xử sự phổ biến hiện nay: không tách nổi cái ưu tú khỏi cái tạp nhạp làng nhàng; với cái thực có giá trị thì rẻ rúng chẳng coi là gì, còn với những cái tầm thường thì lại quá rộng rãi, để chúng tha hồ lấn lướt và leo lên cả những chỗ chúng không xứng đáng.

Ở đâu thì cách xử sự đó cũng là dở, song trong việc quản lý di sản nó càng tỏ ra bất cập. Bởi sau những tùy tiện như vậy, bao nhiêu thiện chí của người ta dù có cao vời đến đâu chăng nữa rồi cũng chỉ mang lại một hiệu quả… lùn tịt.

VỪA LÀ TÌNH CẢM, VỪA LÀ CẦU LỢI

Có phải cách biểu hiện tình cảm của người mình nhiều khi quá ồn và mang nặng chất diễn, tức thích ngả sang khoe mẽ phô phang? Liệu bao giờ chúng ta mới tìm ra được cái hình thức hợp lý cho những nghi lễ cần thiết? Nhiều lần ý nghĩ ấy đã đến với tôi, nhất là trong những dịp vui, chẳng hạn một đám cưới hỏi, một lễ hội, và cả trong những ngày tết cổ truyền. Hôm nay đây nó lại đến với tôi nhân không khí xã hội vào đêm trước của ngày 20-11, ngày Nhà giáo Việt Nam như vẫn được gọi một cách trang trọng. Một mặt, tôi thấy việc này là cần thiết và mong mỏi có cách gì đó thực hiện một nhu cầu tình cảm chân thành nơi mình; mặt khác, lúng túng vì chẳng biết cách sao để bộc lộ. Nhìn ra chung quanh, cũng thấy một tình trạng bất lực tương tự. Trong phần lớn trường hợp, tình cảm được biểu hiện một cách vụng về. Người này lặp lại người kia, năm nay nói những chuyện y như năm ngoái. Cười cười nói nói đấy mà không tạo được cảm giác thiêng liêng như nó phải có. Lời nói của con người lúc này trở nên nhàm chán, nó đã bị tha hóa ngay ở cái chỗ nó phải tự nhiên và tươi mới hơn ở đâu hết. Người ta, tức là cả học sinh và thầy giáo, chỉ làm cái việc hình như ai ở vào hoàn cảnh ấy cũng làm, chúc tụng nhau, cám ơn nhau, hứa hẹn với nhau, ngoài ra các trò thường không quên có thêm ít quà, quà sẽ to nhỏ tùy tâm tùy sức, mà cũng tùy theo cái yêu cầu họ muốn gửi gấm và chờ đợi nơi thầy – điều sau cùng này tuy không nói ra song ai cũng hiểu.

Ngày hội này đang có quy mô ngày càng lan rộng, nhất là ở các thành thị. Đường sá tấp nập hơn những ngày thường. Trước khi nối nhau xuôi ngược, học trò chen chúc ở các cửa hàng. Giá hoa ở những người đạp xe bán rong tăng vọt hẳn lên, để rồi mấy hôm sau, đống rác nào bên đường cũng to hơn ngày thường vì những bó hoa vứt sớm.

Người có lỗi trước tiên phải kể là chính chúng ta, tức là các bậc cha mẹ học sinh, cái bên chủ động trong cái lễ hội tự phát này. Rằng tình cảm không thể là lời nói suông. Rằng mỗi người phải góp phần xã hội hóa giáo dục. Rằng lương của các thầy các cô, cũng như lương của mỗi chúng ta, vốn đã quá thấp… Ta viện ra đủ thứ lý do để biện hộ như vậy. Song đằng sau cái việc mà bảo là làm vì các thầy, thật ra ta đang làm vì chính bản thân.

Nhiều người tha thiết giục con đi đến thăm thầy bởi chỉ sợ thầy quên con mình. Không muốn để ai biết, nhưng trong thâm tâm, họ sẵn sàng tìm cách lấy lòng thầy một cách thiết thực, như khi đi cúng bái, họ đã toan hối lộ thần thánh. Tức là, cái tư duy thực dụng – một lối thực dụng sát mặt đất mà người ta thường tưởng lầm là đặc trưng của thời buổi kinh tế thị trường – đã sớm có mặt.

Thế nhưng các thầy hoàn toàn vô can chăng?

Trong khi đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi này, tôi tìm được một đoạn trong cuốn Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính (sách viết năm 1915).

Sau khi bảo rằng “người ta sinh ra ở đời,… có thầy dạy mới khôn biết việc này việc nọ, cho nên học trò ở với thầy cũng như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một luân thường của Á Đông ta”, tác giả than phiền: “Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dở. Kìa như các bực đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ có ân đức giáo hóa nhuần thấm đến người thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ để hộ khẩu (có thể hiểu là để kiếm ăn – VTN chú) cho qua ngày, vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo. Động một tí thì bổ cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi thầy có việc mừng vui, nào khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là cái mọt của thiên hạ”.

Cái hiện tượng Phan Kế Bính miêu tả thuộc loại những bi kịch của một xã hội dựa trên kinh tế tiểu nông – khi chưa tìm ra được cách thanh toán công xá với nhau, người ta phải nghĩ ra nhiều thứ gọi là lễ để thay thế. Và cái bi kịch ấy vẫn còn, khi điều kiện kinh tế đẻ ra nó vẫn còn! Vào những ngày này, nhiều thầy cô giáo, ở chỗ riêng tư, vẫn bảo rằng nhận quà và nghe những lời chúc mà chẳng thấy thú vị gì cả. Song bất chấp những phản ứng lẻ tẻ, guồng máy vẫn quay, và đứng ở ngoài mà nhìn, thì thấy thầy trò ai vẫn ở đúng vị trí người đó.

CHÍNH NHỮNG NGƯỜI ĐẶT HÀNG
CÓ LỖI TRƯỚC

Nếu có ai hỏi trong số các sự kiện của năm 2002 có những chuyện gì đáng nhớ nhất, thì về phần mình, tôi nhớ ngay tới câu chuyện của một quan chức của Bộ Giáo dục. Ông này nhân trả lời một cuộc phỏng vấn về chất lượng đào tạo, nói rõ ra rằng thực ra hàng năm chỉ khoảng độ ba chục phần trăm học sinh các lớp của trường phổ thông đáng được lên lớp và đáng được công nhận là đã tốt nghiệp, chứ không phải những con số tám chín mươi phần trăm (thậm chí không ít nơi trăm phần trăm) như hiện nay.

Từ lâu, bọn tôi đã biết rằng trình độ dạy và học ở ta rất kém, các sinh viên đại học ra trường khó kiếm được việc làm, căn bản là vì không theo kịp trình độ sản xuất hiện thời.

Riêng trong phạm vi bậc học phổ thông, từ lâu chúng tôi đã biết rằng nhà trường bây giờ cho điểm quá dễ, trẻ con ở nhà chúng thường gọi là điểm của thầy cô rất rẻ.

Mặc dầu vậy, mọi người vẫn nghĩ rằng có kém thì giáo dục ta cũng kém một chút thôi, và đã có sự thông minh ham học sẵn có của dân mình bù lại. Nay hóa ra toàn ảo tưởng! Kể cả trong trường hợp con số mà vị quan chức kia nêu ra không hẳn đã chính xác 100%, thì tôi vẫn tin rằng, trên nguyên tắc, ông đã nói lên sự thật.

Tuy nhiên, người ta lại càng thấy buồn hơn khi nghe vị quan chức Bộ Giáo dục nói trên cho biết khả năng giải quyết tình hình hiện nay. Theo ông, tình trạng trên sẽ không dễ khắc phục, nói nôm na là không thể giải quyết nổi, vì phụ huynh học sinh thời nay có tâm lý con cái đi học thì phải giỏi giang, chứ không ai chấp nhận đến 60-70% ở lại lớp.

Cả lần này nữa, vị quan chức kia đã nói đúng. Xin tạm phác ra sơ đồ một cách nghĩ cách làm về giáo dục phổ biến trong xã hội như sau:

– Lấy lý do ai cũng có quyền được đi học, chúng ta tổ chức việc học một cách tùy tiện, trường không ra trường lớp không ra lớp cũng cứ mở, thầy không ra thầy cũng cứ cho dạy. Trong hoàn cảnh kinh tế còn yếu kém, chẳng những cơ sở vật chất các trường ở ta khó khăn, mà chương trình học và nói chung mọi chuẩn mực ở nhà trường cũng bị hạ thấp.

– Đáng lẽ phải coi tình trạng nói trên là đáng xấu hổ, sớm muộn phải tìm cách khắc phục thì, trong sự bề bộn của công việc hàng ngày, ta tự ru ngủ rằng mọi chuyện trong giáo dục đang rất bình thường, và nghĩ ra đủ mọi lý do để chống chế.

Nếu không có chuyện con cái tốt nghiệp phổ thông khó vào đại học, hoặc ra trường không cần chạy tiền vẫn đàng hoàng gia nhập vào bộ máy quan liêu ở các cơ quan nhà nước như thời bao cấp, thì chắc chẳng ai thắc mắc chuyện chất lượng đào tạo làm gì cho mệt (!)

– Chẳng những chấp nhận một cách dễ dãi, chúng ta còn thường đòi hỏi quá nhiều ở kết quả học hành của lớp trẻ. Những đòi hỏi ấy có một nguyên nhân sâu xa: sau những năm chiến tranh, bắt đầu nhìn ra thế giới, ai cũng thấy nản vì trình độ kinh tế mình quá yếu kém. Chỗ để bấu víu để hy vọng chỉ còn là một cái gì thuộc về đời sống tinh thần, cái phần thông minh sáng láng của con người. Phải nêu cao cho được tiềm năng trí tuệ của dân mình! Bằng cách nào cũng được miễn là con em mình phải có tiếng là giỏi!

Trước nhu cầu thậm vô lý ấy, các cô giáo thầy giáo đã có cách thích ứng kịp thời. Tức là chẳng có nghiên cứu và cải tiến gì lắm cho phiền phức, mà chỉ cần “dong công phóng điểm”, làm sao cho có nhiều học sinh lên lớp, học sinh tốt nghiệp trong các kỳ thi (cũng như ngành giáo dục có thêm nhiều tiến sĩ với lại giáo sư) là được, còn chất lượng đến đâu, có theo kịp trình độ giáo dục tiên tiến trên thế giới hiện nay cũng như có đạt được những chuẩn mực quốc tế hay không – không cần biết.

Thích nghe thành tích đang là căn bệnh có ở nhiều người, chứ không chỉ có riêng ở các bậc làm cha mẹ. Hàng ngày chúng ta đã khổ rất nhiều vì lối làm ồn rầm rĩ trước chút việc mọn mới làm được. Thế nhưng ở khu vực nào cũng vậy, luôn luôn có một câu hỏi có thể đặt ra: có phải là xã hội vô can trước tình hình ấy? Hay là sở dĩ tình trạng làm láo báo cáo hay cứ hồn nhiên phát triển, là vì trong thâm tâm chúng ta thích nghe chúng, chỉ chấp nhận chúng, thậm chí nói cho đầy đủ là ngấm ngầm khuyến khích người ta báo cáo giả để cùng an lòng?

Nói cách khác, từ những thiện chí cùng những mong mỏi chính đáng, cuối cùng chúng ta tạo ra đủ điều kiện cần thiết để dẫn tới những kết quả tai hại.

Trò làm hàng không đủ chuẩn mực trong giáo dục như thế này, không gì khác, chính là đầu mối để đào tạo nên một loại người mà nếu đánh giá cho nghiêm khắc phải gọi là ở dạng phế phẩm: những học sinh kém khi lên đại học vẫn chỉ là những sinh viên kém; rồi khi ra trường chỉ trở thành những người lao động có lối nghĩ tầm thường, tay nghề xoàng xĩnh, tinh tướng xoay xỏa kiếm chác thì giỏi, mà làm việc theo nghĩa thực thụ thì không biết. Chẳng những thế, cái tâm lý chung sống với các giá trị giả, nhắm mắt bằng lòng với của giả, kiêu ngạo một cách vô lối, phổng mũi trước những lời khen xã giao, ngại ngùng sợ hãi không dám nhìn thẳng vào sự thực chỉ vì chúng quá cay đắng… sẽ càng có dịp nẩy nở và di hại đến các thế hệ tiếp nối. (Xin nói thêm là cách suy nghĩ chỉ cần ta biết với ta, bất chấp chuẩn mực chung đang ngự trị ở nhiều ngành nghề lĩnh vực, đến mức một nhà nghiên cứu xã hội học gần đây phải đưa ra khái niệm “chủ nghĩa coi dân tộc mình là ngoại lệ” – xem bài của Mai Huy Bích trên tạp chí Xã hội học số 4 (76) – 2001. Tạp chí này là cơ quan nghiên cứu lý luận của Viện Xã hội học thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia).

Từ chuyện viết sách giáo khoa đến chuyện tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi, từ chuyện chấm điểm đến chuyện tổ chức các kỳ thi, rồi cơ sở vật chất của nhà trường, rồi lương bổng của giáo viên… chưa bao giờ công việc giáo dục được báo chí mang ra bàn bạc nhiều như lúc này. Đôi khi chỉ vài chi tiết lặt vặt trong cuốn sách giáo khoa lớp 1 cũng tốn không biết bao nhiêu giấy mực. Nhưng theo tôi, cái đáng bàn nhất hiện thời là quan niệm của chính mỗi người chúng ta về giáo dục, có sòng phẳng với nhau thì mọi chuyện mới có hướng để gỡ dần. Đó là: liệu ta có chấp nhận rằng kinh tế non kém thì việc học hành của con em ta cũng không thể bằng người và phải có một sự tính toán rất thông minh, một cách nghĩ rất nghiêm túc thì giáo dục mới khá được? Ta có nhất quyết phấn đấu để có một nền giáo dục đạt tiêu chuẩn quốc tế, hay chỉ thích “yên ngủ” trong tình trạng kém cỏi của mình rồi tự đặt ra những tiêu chuẩn riêng để lấy lòng nhau, cốt sao cả hội cả làng cùng vui vẻ? Bao giờ thì ta mới thấy sợ trong cái việc hàng năm cho “xuất xưởng” đều đều những “mặt hàng” – ở đây là những con người – không đủ tiêu chuẩn và thản nhiên để họ đi vào xã hội tương lai như hiện nay?

THỪA THẦY THIẾU THỢ

Chuyện con người và nghề nghiệp

Ai cũng nói buôn mà chẳng ai biết buôn

Hồi chưa có chủ trương bung ra làm ăn, nhiều người thường nhìn sự buôn bán bằng con mắt tiếc rẻ. Thấy một số người liều lĩnh làm công việc gọi là phe phẩy để rồi kiếm bộn tiền, ta nghĩ có khó gì đâu cái việc buôn ấy, ai buôn mà chẳng được. Có biết đâu vài năm sau, mới thấy việc không dễ nhằn: lừa lọc móc ngoặc đánh quả… là một việc, còn buôn bán theo đúng nghĩa của nó lại khác hẳn.

Một mặt, cái gọi là tư duy con buôn đang xâm nhập vào mọi hoạt động. Trong công việc nghiên cứu khoa học. Trong dạy và học. Trong mối quan hệ giữa người và người, kể cả trong tình yêu, tình bạn. Mặt khác, chính cái việc buôn bán với nghĩa thực của nó, tức phân phối và lưu thông hàng hóa, việc ấy thì lại không mấy ai biết làm cho giỏi. Và đi ra buôn bán với thiên hạ thì người mình thật sự là còn đang rất ngô ngọng.

Những quan chức chưa có nghề

Một công việc khác tưởng ai cũng có thể làm được do đó không có người làm giỏi là việc phụ trách quản lý, nói nôm na là việc làm quan. Ở đây cũng có tình trạng tương tự như buôn bán. Tức là ai cũng thích làm, cũng tưởng mình thừa sức làm, trong khi chẳng mấy ai gọi là có nghề trong việc làm quan cả. Chỉ giỏi bảo nhau làm đại đi, còn như giá có ai hỏi làm như thế nào thì chưa chắc đã biết.

Mà không có nghề ở đây thì vừa làm khổ mình, vừa làm khổ người khác, cả cấp trên lẫn cấp dưới.

Nghề càng tưởng dễ thì càng khó

Chuyện thời sự ở nông thôn hiện nay là đi xuất khẩu lao động. Một người bạn tôi có vợ làm phiên dịch cho một công ty Đài Loan kể:

– Chính tuyển người đi phục vụ trong các gia đình lại khó nhất.

Nghe mà thấy bất ngờ. Cũng tương tự như tôi đã bất ngờ khi nghe nói rằng một số tỉnh bắt đầu cử bà con nông dân đi các nước học nghề. Thì ra cũng như nhiều người, mình hay chủ quan mà nghĩ rằng những việc như làm ruộng hoặc trông nom nhà cửa thì bất cứ ai cũng làm được. Trong khi ấy thì trong xã hội hiện đại, cái gì người ta cũng đưa lên thành bài bản và coi là nghề phải học.

Học xong chả biết làm gì

Ta thường hay nói môi trường đầu tư ở Việt Nam hấp dẫn mà một trong những lý do tạo nên sự hấp dẫn đó là vì người mình thông minh chịu khó, lại khéo léo, và có văn hóa, dễ tiếp nhận kỹ thuật nước ngoài. Nhưng bản tin của VTV1 sáng 10-3-2003 đưa tin: Chỉ có 4% người Việt ra nước ngoài (xuất khẩu lao động) có tay nghề với nghĩa nghiêm chỉnh.

Cái sự thiếu người có nghề thật ra đâu phải chỉ đến ngày đưa người đi lao động nước ngoài mới biết. Mà lâu nay, mỗi năm hè tới, cả xã hội gần như rung động vì các kỳ thi đại học, thì lại là một dịp nhiều người chép miệng: thi cử căng thẳng nhưng rồi học xong chả biết làm gì. Thừa thầy thiếu thợ. Các trường gọi là đại học quá chật là vì các trường dạy nghề của ta quá yếu.

Giỏi kiếm ăn chứ không phải giỏi nghề

Ở chỗ riêng tư, nhiều người gần đây không giấu nổi ngạc nhiên: tiền nhiều quá, các cơ quan cũng như dân đều sẵn tiền, không có tiền làm việc lớn nhưng ăn uống chè chén rồi trợ cấp với biếu xén thì lu bù, lương thấp nhưng bổng lộc lại gấp mấy lương. Tương tự như vậy, trong khi cái phần con người nghề nghiệp mờ nhạt thì thay vào đấy ở nhiều người lại đang nổi lên cái phần con người kiếm sống. Nghĩa là xoay sở chạy chọt, tác động chỗ này gí điện chỗ kia. Thậm chí, cái tiêu chuẩn để một vị thủ trưởng được anh em yêu mến thời nay không phải là chuyên môn giỏi mà là chạy giỏi, kiếm được nhiều tiền về chia cho nhân viên.

Sổ tay tôi có ghi được một câu nói của nhà văn Nga L. Leonov:

Khi nói tới con người, tôi cho rằng nói luôn tới nghề nghiệp là một điều cần thiết. Tổng quát mà nói tôi thích những người yêu tột độ một cái gì đó. Đối với tôi, việc đi sâu vào cách nhìn đời sống của họ thông qua nghề nghiệp mà họ gắn bó, là một chuyện rất thú vị. Nghề nghiệp chính là sợi dây xã hội nối kết con người với thời đại.

Tạm diễn cái ý trên đây của Leonov như sau: mỗi con người chúng ta phải được chuyên môn hóa. Phải có đóng góp cho xã hội trong một công việc cụ thể, và ta phải chăm chút học hỏi để cho cái công việc cụ thể đó trở thành công việc giỏi giang.

Trong thực tế, đây lại thường là chỗ yếu của con người trong xã hội ta hôm nay.

MẠNH AI NẤY SỐNG

Thử tìm một triết lý toát ra trong cách đi lại hiện thời

Đường sá hay là hình ảnh của xã hội

“Trong ý nghĩa tượng trưng của chúng, các xe cộ, cổ cũng như hiện đại, là những hình tượng của cái tôi. Chúng phản ánh các mặt khác nhau của đời sống nội tâm và có quan hệ với các vấn đề phát triển của nhân cách”.

Trong một cuốn sách nghiên cứu mang tên Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (NXB Đà Nẵng) tôi thấy người ta viết như vậy. Đúng quá rồi còn gì!

Nhưng nếu xe là biểu hiện của cái tôi, thì đường là hình ảnh thu nhỏ của cuộc sống mà ta vẫn sống tuy không bao giờ hình dung ra đầy đủ. Như nhìn vào đường sá ở ta hiện nay. Xã hội đấy! Ai cũng mắm môi mắm lợi để cố mà đi cho nhanh trong khi thực tế tốc độ xe cơ giới trung bình chỉ độ 20 km một giờ. Và chen chúc. Và lộn xộn nữa.

Biết là xấu mà vẫn bị kích động làm theo

Trước khi ra đường, thường tôi không quên tự nhủ mình già rồi không có việc gì quan trọng, hãy cứ từ từ mà đi, kẻo tai nạn xảy ra thì khốn.

Ấy vậy mà nhiều lần nhìn đồng hồ xe máy, thấy đã phóng với tốc độ bốn năm chục kilômét từ lúc nào. Hoặc ở những quãng đông, xe mình cũng bóp còi inh ỏi chẳng kém một ai; rồi cũng ra cái điều khoái trá hỉ hả y như bắt được của, khi vượt được người bên cạnh, mặc dầu sau khi phóng như điên đến cái nơi cần đến, cũng chẳng có việc gì quan trọng, mà chỉ làm chén nước và tán gẫu.

Thấy lối đi ấy ở mình đã thành thói quen tự nhiên, và hỏi chuyện những người khác, rồi tôi mới vỡ ra: cái cách đi lại như hiện nay nó làm nảy sinh trong mỗi chúng ta cái tâm lý đua chen. Tức là thường xuyên nảy sinh sự so sánh. Ông này đi ngớ ngẩn quá, bị người ta chèn; còn mấy cậu choai choai kia đi liều đi ẩu song hóa ra lại được việc. Ta hay trông trước trông sau. Và chỉ sợ thiệt. Ta học rất nhanh những thói xấu, xoay xở luồn lách. Hình thành một loại tâm lý đặc biệt: lấy việc hơn người được nửa vành bánh xe làm điều vênh váo.

Nhưng con người có phải cái máy đâu mà thoát được cái tâm lý tầm thường ấy!

Thử biện hộ cho những người phạm luật

Hầu như ngày nào trên đường cũng thấy có những người đi đường phạm luật, dù chỉ một số nhỏ trong họ bị giới chức giao thông bắt phạt. Lại nhớ một cách nói của dân gian có từ hồi 1981 khi anh hùng Phạm Tuân bay vào vũ trụ: “Trên trời chỉ có một Phạm Tuân, còn dưới đất có muôn ngàn người phạm pháp”.

Tại sao ư? Trong nhiều lý do, tôi xin nêu một lý do không nên bỏ qua: đường sá ở một đô thị như Hà Nội (phần chính làm ra từ trước 1954) là để dành cho người đi bộ, cùng lắm là đi xe đạp. Vì thế đường phố không chỉ chật hẹp mà lại lắm ngã tư. Nay ngã tư nào cũng đèn xanh đèn đỏ, hành trình đi của người dân thành ra cứ bị cắt vụn ra thành những quãng lắt nhắt. Vừa rú ga đi được ba bốn chục mét đã phải tính chuyện dừng lại, hỏi làm sao người ta khỏi bực mình và dễ tặc lưỡi, phóng ào cho được việc.

Có thể gọi là kỳ quái?

Có những ý nghĩ cứ len vào tâm trí mình như cỏ dại tức không hiểu từ đâu mà nó lại xuất hiện. Đây là hai ý nghĩ loại đó:

1/ Sao tự nhiên cái cảnh hàng đoàn xe máy chen chúc nhau lại thành môi trường cách sống của cả triệu con người thế này? Có phải là kỳ quái quá không? Có thể có cách đi lại kiểu khác hay không?

2/ Chúng ta đang còn lo đi lại cho an toàn. Không biết đến bao giờ mới lại lo đi lại cho đẹp – cái đẹp chung, không phải của từng người mà của cả thành phố?

Những triết lý tự phát

Tôi chưa có điều kiện ra nước ngoài nhiều, chỉ mới sang Nga làm việc vài năm và đi du lịch bụi ở Trung Quốc vài tuần lễ. Cái món metro là một thứ đặc sản ở Nga không nói làm gì rồi, đến hệ thống xe buýt của họ cũng cho tôi một cảm giác trật tự. Mỗi ngày một ít ở người tham gia giao thông tự nhiên hình thành một cảm quan chung, mình chỉ là một bộ phận của một guồng máy xã hội, và mình có trách nhiệm thực hiện những quy ước chung, khi xe an toàn đến bến thì mình cũng đến đích.

Phải nhận đấy là ưu thế của mọi nền giao thông hiện đại. Có lẽ vì thế mà ở Trung Quốc người ta sớm nghĩ ra chuyện hạn chế sự lưu thông xe máy, một quyết định mà tôi cho là cực kỳ thông minh, nó có khả năng giúp cho con người sống một cách có văn hóa. Còn cứ như ở ta mỗi người một xe, đi nhanh hay chậm do mình, an toàn hay tai nạn cũng do mình, thì cái cảm giác gắn bó với cái chung có giảm đi cũng là một điều tự nhiên.

… VÀ KIẾM SỐNG VỚI BẤT CỨ GIÁ NÀO!

Thời tiết oi ả, đang nóng bỗng lạnh đang lạnh bỗng nóng, nhiều nhà đêm trước vừa mở điều hòa, đêm sau đã phải lôi chăn mùa rét ra đắp, khí trời năm nay ở đồng bằng sông Hồng độc quá! Chẳng những con người nhoai ra mà đến cả các giống vật cũng khó sống: ở vùng ngoại ô tôi đang ở, sáng sáng trên mặt hồ vô khối cá chết nổi lềnh bềnh. Có cá chết là có người đi vớt, bởi thứ cá này đun lên còn cho lợn cho chó ăn được.

Mấy người dậy sớm lại chuẩn bị sẵn vợt, cá vớt được dễ đến cả rổ. Đến lượt một ông già nọ, lộc giời chẳng còn bao nhiêu, đi lui đi tới ngắm nghía mãi mới thấy một hai con sót lại. Cá thì nằm khá xa mà trong tay ông không có lấy một cái que cái sào nào cả. Nhưng ông không chịu! Thoạt đầu thấy ông nhặt gạch hòn to hòn nhỏ vun thành đống lùm lùm tôi chưa hiểu để làm gì. Bỗng nghe tũm tũm gạch ném xuống nước, thì ra ông lấy gạch để lái cho cá trôi dần vào bờ. Liên tiếp, có đến vài chục viên gạch được sử dụng. Khi mùi cá chết nồng nặc xông lên thì cũng là lúc tôi nghe cái túi ni-lông trong tay ông già sột soạt. Có thế chứ! Thoát làm sao được khỏi tay ta, hỡi những chú cá không biết mới chết đêm qua hay từ hôm kia mà thân hình đã mủn cả ra trên mặt nước!

Tôi đứng nhìn ông già lấy gạch dồn cá mà nghĩ đến cách kiếm sống của con người hiện nay. Nào ông có khác với nhiều thanh niên trai trẻ háo hức vào đời, nhất là những thanh niên nông thôn đang đổ lên đô thị: Tay trắng lập nghiệp. Nghề ngỗng chẳng có. Đồ nghề không tức là công cụ không. Có miếng ngon miếng sốt thì lớp người đi trước giành hết cả rồi. Thành thử có gì là lạ khi họ chỉ còn cách lăn xả vào bất cứ việc gì người ta thuê mướn dù là mồ hôi đổ ra nhiều mà đồng bạc thu về chẳng khác mấy con cá trôi nổi trên mặt hồ.

Thế nhưng cái đáng sợ nhất vẫn là cái “triết lý” toát lên từ cái việc kiếm sống đơn giản này. Nhìn đống gạch được ném xuống nước, tôi cứ định nói với ông già rằng như thế tức là trực tiếp phá hủy môi trường. Ai cũng thích thì làm, hôm nay mươi viên mai vài chục viên, hỏi còn gì là cái mặt nước thân yêu? Chẳng phải là chỉ mấy năm nay nước hồ đã đen dần vì nước cống, lòng hồ đã bồi cao lên vì các loại phế thải xây dựng và rác rưởi? Nhưng tôi không mở miệng nổi. Từ cái việc mà ông già thản nhiên và hào hứng theo đuổi, tự nó đã toát ra một lời tuyên bố: để kiếm sống, con người ta có quyền làm bất cứ việc gì họ có thể làm, bất kể là có hại cho người chung quanh hoặc tàn phá môi trường sống chung quanh đến như thế nào.

Lại nhớ nhà văn Nga Tchékhov (1860 – 1904) từng có một đoản thiên kể chuyện một người mugich hồn nhiên tháo đinh bù loong trên đường sắt về rèn mấy cái đinh thúc ngựa. Sắt ê hề ra đấy mà làm gì, tháo một vài cái có sao, không tàu hỏa thì đi bộ đã chết ai? Còn ở ta những năm chiến tranh có những người coi kho phá cả một cỗ máy để lấy mấy cái vít. Xét về mặt lý lẽ mà người trong cuộc đưa ra để biện hộ, giữa những việc đó với việc người ta rải đinh trên đường cao tốc, bán đủ các loại rau quả vừa phun thuốc trừ sâu, đá bóng vào lưới nhà để thực hiện hợp đồng bán độ, rồi chặt phá rừng vô tội vạ, rồi mua bán bằng cấp và chức sắc, rồi kê đơn cho bệnh nhân toàn những thuốc đắt tiền để ăn hoa hồng, rồi đưa ma túy vào trường học rủ rê con nhà lành vào con đường nghiện ngập cốt bán được ít hàng quốc cấm… có khác nhau là bao? ở đâu thì cũng cùng một lý lẽ ấy, lý lẽ của ông già ném gạch dồn cá, vốn đã bắt rễ trong tiềm thức nhiều người chúng ta. Khi độ nguy hiểm của nó ta còn chưa cảm thấy rõ ràng thì làm sao đủ sức để chống lại?

RỒI SẼ CƯỜI TRỪ VỚI NHAU MỘT LƯỢT

Chữ tín thời nay

Chương trình VTV1 trưa 10-5-2003 đưa tin: ở nhiều vùng nông sản nguyên liệu, đang có hiện tượng nông dân tùy tiện phá bỏ hợp đồng đã ký với nhà máy. Tới ngày thu hoạch, những cây mía cây dứa đã trồng theo kế hoạch được bà con mang bán thẳng cho các tư thương. Sau khi để một ông ở Vụ pháp chế giảng giải một hồi, chương trình TV kết luận bằng lời kêu gọi nông dân hãy giữ chữ tín trong quan hệ làm ăn với nhà nước.

Có lý cả đấy!

Lâu nay, tôi tập cho mình có một thói quen suy nghĩ là nghe chuyện gì không hay, chưa phê phán vội, trước tiên hãy tìm cách lý giải tại sao cái sự không hay đó xảy ra. Như trong trường hợp này, khi nghe có sự gọi là bội tín như trên, tôi thử đặt mình vào địa vị của những người nông dân để cãi lại. Cái lý thật đơn giản: vào thời điểm này (lúc khác có thể khác) bán cho nhà nước theo hợp đồng thì giá thấp mà bán theo giá tư thương thì giá cao. Rồi còn chuyện nhận tiền khó khăn, một bên tiền ngay tuốt suýt, một bên rõ là tiền của mình mà khi đi nhận lằng nhằng chờ đợi lạy lục mãi mới lấy nổi. Vả chăng nay là lúc nhìn đâu chẳng thấy chuyện hứa hươu hứa vượn, chuyện thả vịt trời. Đưa người đi khai hoang, hoặc di dân lấy đất làm công trình thì vẽ ra đủ thứ, sau chẳng khác gì đưa con bỏ chợ. Mất điện thì chỉ đổ cho lý do là có sự cố, còn lờ đi không bao giờ tính chuyện đền bù thiệt hại do việc mất điện gây nên… Có bao nhiêu việc chung quanh tồn tại làm cái cớ cho người bội tín dựa vào để tự biện hộ.

Nhưng đấy mới chỉ là những nguyên cớ dễ thấy; trong tâm lý con người còn lắm chuyện rắc rối khác.

“Quyền” của những người tự cho là mình khổ hơn người khác

Theo dõi các vụ án to có nhỏ có và rất nhiều trường hợp phạm luật ở mức nhẹ, phạm luật mà chưa đến mức bị đưa ra tòa (loại vụ này phổ biến đến mức đã có người nói đùa Trên trời có một Phạm Tuân mà dưới đất có muôn ngàn người phạm pháp), có thể tạm chia các bị can hiện thời ra làm hai loại, một loại vô tình, một loại cố ý. Loại thứ hai này tự cho phép làm liều, vì nhiều lẽ: Vì quá túng quẫn. Vì thấy mình bị thiệt. Vì biết rằng những người khác phạm tội cũng không sao, nên có làm sao, cũng không ai làm gì được mình (!)…

Nói cách khác đó là những người hành động một cách có ý thức. Nhiều người đang sống với cái lý sự: Khi người ta khổ hơn người khác tức là có quyền làm bất cứ việc gì khỏi khổ. Để được chứng tỏ bình đẳng. Và cho bõ tức. Có lợi thì cái gì cũng có quyền làm. Chỉ sợ nói dối không trôi chứ không việc gì phải xấu hổ trước những lời nói dối. Mang tiếng là lừa lọc nhưng còn có tiền mà nuôi con, còn hơn để con đói con khổ.

– Đói ăn vụng túng làm càn

– Chính sách em học đã thông

Chỉ vì túng thiếu xin ông ít nhiều

Thường khi vào cuộc, người ta tự nguyện tuân theo một thứ luật miệng, bắt đầu từ chữ chỉ biết: Chỉ biết tới đồng tiền mang về, còn như uy tín danh dự, việc ấy không quan trọng. Chỉ biết nhà mình, còn việc chung của cả xã hội, hơi đâu mà lo cho mệt. Chỉ biết có ngày hôm nay, còn mai ra sao chưa tính. Trước mắt chúng ta vậy là có một quá trình khép kín, đủ để cho người phạm lỗi tự vệ. Và… và mai lại làm tiếp.

Nếu không nói to lên thành lời thì đây đã là cái điều nhiều người tự nhủ trong lòng. Mà nó sẽ dẫn người ta đến đâu thì không ai biết.

Cái vòng luẩn quẩn

Có thể dự đoán câu chuyện bán hàng nông sản nói ở phần trên như sau: Năm nay, hàng hiếm, dân tư thương mua tranh bán cướp, thì chạy theo tư thương. Nhưng một vài năm sau, tư thương làm ăn thất bát hoặc hạ giá, thì lại đến gõ cửa nhà nước. Và van vỉ: Hãy giúp đỡ chúng tôi trong lúc khó khăn. Và lý sự: Các anh phải có trách nhiệm chứ. Liên minh công nông cơ mà! Cố nhiên là có thêm những nụ cười dân gian quen gọi là cười trừ. Mà cười trừ thì bao giờ cũng thắng. Việc thực hiện hợp đồng trót lọt, cho đến khi giá ngoài lại cao hơn giá trong, lại có chuyện có mới nới cũ. Một cái vòng luẩn quẩn sẽ được lặp đi lặp lại.

Xét ở từng người, thì chẳng qua cũng vì nghèo túng mà phá bỏ cả chữ tín. Nhưng xét chung trong cả xã hội thì những sự tùy tiện trong quan hệ làm ăn thế này sẽ khiến cho cả nền sản xuất xã hội không thể khá lên được. Cái vòng luẩn quẩn thứ hai này mới thật là đáng sợ. Rút cục, tôi cũng không biết nên nói dân mình là khôn hay dại, người mình là thực dụng hay nông nổi nữa.

KHI HOA THÀNH RÁC

Nhiều năm lại đây, sau những ngày lễ ngày Tết, báo chí đã kêu ầm lên là đường phố Hà Nội đầy rác. Chẳng hạn năm nào cũng vậy, khoảng từ rằm tháng Giêng trở đi, một trong những dấu hiệu cho thấy những ngày tết Nguyên đán chỉ vừa mới qua, là nhìn vào nhiều góc phố thường thấy chồng chất những cành đào tàn héo, và trước nhiều số nhà, dễ dàng bắt gặp những cây quất bị nhấc lên khỏi chậu đất bắt đầu vỡ tung ra, được ném ngay cạnh dòng nước chảy bên đường, chờ xe rác đến hốt.

Sinh thời đạo diễn Nguyễn Đình Nghi (mới qua đời đầu năm 2001) từng khái quát hai hình ảnh sâu đậm mà Hà Nội để lại trong ông là hoa và rác. Theo nghĩa này, tết nhất chính là một trong những thời điểm chính hoa trở thành rác, và cái sự kiện rác của hoa nó nói với chúng ta một vài điều mà lâu nay ta không để ý.

Rác – chất thải nói chung – vốn là một cái gì rất phiền phức với nghĩa nó là một bộ phận của cuộc sống, tách nó ra khỏi cái hữu ích đôi khi rất khó. Có một thời gian nó đã trợ giúp anh trong đời sống, nó bạn bầu với anh, nó là niềm vui của anh. Cho nên chia tay với nó lôi thôi lắm. Lưu luyến. Ái ngại. Song việc đời là thế, cái gì cũng có niên có hạn của nó, cái gì rồi cũng có thể trở thành rác cả. Thuốc quá đát dùng còn có hại, một số loại hoa đến kỳ héo còn bốc mùi khó chịu và gợi bực mình, ai giữ trong nhà mãi được?

Nay là thời các thứ bao bì được làm rất đẹp, một hộp bánh mua về ăn hết rồi, nhiều người già cỡ tuổi tôi trở lên thường vẫn nhìn cái hộp với sự nuối tiếc, cố nghĩ ra lý do để giữ nó lại. Nhưng cái gì cũng giữ, lọ đựng mấy viên thuốc cũng giữ, vỏ chai rượu cũng giữ, hộp xốp đựng cái nồi cơm điện cái quạt cũng giữ, thì nhà thành cái kho rồi còn gì, mà kho nào đựng hết? – phải lên dây cót một lúc mới cả quyết quăng mấy thứ chai hộp ấy ra rác. Hoặc các loại báo tết, tờ nào giấy cũng trắng bìa cũng đẹp nhiều bài vở công phu có anh em mai phục cả năm chuẩn bị bài, nay đem bán cân cứ thấy dùng dằng. Rồi những quyển từ điển nó là vật tùy thân của mình nay mua được những cuốn mới biên soạn tốt hơn mà cũng phải nhấc lên bỏ xuống dăm bảy lần trước khi thay thế. Rồi cả những con người nữa, người hôm qua rất được việc, nhưng hôm nay quá lứa nhỡ thì, thay thì thấy áy náy, mà để nguyên thì hỏng việc. Ác một nỗi, người lại không ghi thời gian sử dụng như thuốc và không phải bao giờ cũng héo hon trông thấy như hoa, sự tình nghĩa khiến người ta sống chung với “rác” hàng ngày mà không hay biết.

Người ta hình như không hay nghĩ nhiều về rác. Có cái gì thừa vứt ra đường cho xong. Trong khi đó theo tôi thái độ đối với rác làm nên thái độ của con người với cuộc sống. Cũng tức là biểu lộ trình độ sống của người đó.

Phần tôi giá như có dịp được đi nước ngoài một cách nhẩn nha, tôi sẽ để công nghiên cứu cái cách của mỗi nước đối với rác thải. Cuối 2003 nghe tin là ở Nhật có loại chế biến rác cho từng gia đình. Giá kể không đắt quá, tôi nghĩ rằng nên khuyến khích để mỗi gia đình mua một cái.

Thôi lan man nghĩ thì không biết đến đâu là cùng. Tiếp theo tết nguyên đán nay đang là mùa lễ hội, trong câu nói đùa của ai đó rằng “nếu dồn tất cả rác đã xả ra ở lễ hội nọ, người ta có thể chôn cái di tích ấy như chơi” không phải là không có một chút hạt nhân hợp lý, cần nhắc lại ở đây như một lời nhắn gửi với cả người kiếm sống ở hội lẫn người đi hội. Về mặt nhận thức, hãy tự nhủ “Khi anh say sưa đi lùng một cành đào đẹp và sung sướng đặt nó vào lọ thì cũng phải nhớ tới cái lúc nhấc nó ra khỏi lọ ném nó ra khỏi nhà”. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta ghi nhớ cái điều có vẻ khinh bạc đó, nhất là cuộc sống hiện đại.

LÒNG TIN VÀ KHẢ NĂNG TỰ ĐỀ KHÁNG

Theo một con số thống kê sơ bộ thì 70% dân nghiện ma túy ở độ tuổi mới 25. Dưới đây chúng tôi thử đưa ra một cách giải thích cái hiện tượng nguy hại đó dưới góc độ văn hóa – đạo đức.

Khi một thanh niên vào con đường nghiện ngập tức anh ta đang tự hủy hoại thân xác. Trước mắt mọi người anh ta là hiện thân của một kẻ bạc nhược mất hết ý chí. Một sự suy đồi về tính cách chính thức bắt đầu. Đúng ra phải gọi là một cái chết đến sớm.

Tại sao ai cũng biết vậy, mà trong xã hội, tệ nạn ấy ngày một phát triển và không biết bao giờ mới có thể triệt bỏ?

Khi nêu câu hỏi này với một số người, tôi thường được nghe những câu trả lời đại khái:

– Tại các cửa khẩu bị lũng đoạn để hàng lậu nhập vào.

– Ôi giời, vốn một mà lãi trăm lãi ngàn! Ông bà nào muốn hốt bạc của thiên hạ thật nhanh thì chỉ có cách đi vào con đường buôn bán cái thứ hàng đó.

Nhưng tôi cho rằng bên cạnh những nguyên nhân khách quan nói trên, ở đây còn có nguyên nhân chủ quan, tức bản thân “cơ địa”, cái đời sống tâm lý của một số thanh niên hiện nay, nó đang là mảnh đất lý tưởng để đám con buôn trục lợi. Và đây có lẽ là một ví dụ rõ nhất chứng minh cho cái điều đơn giản: các hiện tượng tiêu cực bao giờ cũng có căn nguyên văn hóa – đạo đức sâu xa của chúng.

Tội lỗi nhiều khi chỉ bắt đầu từ một phút yếu lòng, một sự buông thả. Tệ hút xách cũng không ra ngoài quy luật đó. Nhiều nạn nhân đã đến với tử thần do chỗ a dua với bạn bè, nhẹ dạ ham chơi ham của lạ, và khi biết mình “tay đã nhúng chàm” thì không rút ra nổi. Có vẻ như trong trường hợp này, các đương sự đáng được giảm nhẹ tội lỗi: Cái lối sống bầy đàn theo đuôi nhau, cái bệnh học đòi đua đả nhau, thanh niên thời nào chẳng có? Nhưng khi để cho một bộ phận thanh thiếu niên trở nên ẽo uột và dễ bị lôi kéo như vậy, thì trách nhiệm của những người lớn tuổi lại nặng nề hơn bao giờ hết. Ở đây có những thói quen, thoạt nhìn vô can, song lại tai hại vô kể. Nhiều người chúng ta, lớn lên trong những hoàn cảnh cơ cực, khi đã khá giả hơn một chút, thương thân mình rồi thương lây sang con, thường muốn cho con ăn tiêu thật thoải mái. Không ai cho là có lỗi khi trót nuông chiều trẻ quá mức. Trong nhiều gia đình, lớp trẻ chỉ biết có quyền lợi mà không biết đến trách nhiệm. Các trường học bây giờ lại có lối cho điểm học trò thật cao để lấy thành tích. Trong sự dễ dãi với nhau, ta càng dễ hơn với trẻ, và trẻ cứ thế nghênh ngang vào đời với nhiều nhược điểm đáng sợ. Trong khi kêu trời với nhau rằng thanh thiếu niên giờ đây nhiều em ích kỷ, ham hưởng thụ, dửng dưng với việc đời, với cái hay cái dở… nhiều người quên rằng chính mình đã góp phần nhào nặn nên những tính cách đó. Giá kể như chúng ta sớm biết đề ra những yêu cầu cao với trẻ, biết dạy dỗ chúng trở nên những con người nhạy cảm, có lòng vị tha, có nghị lực theo đuổi mục đích cao đẹp… thì đâu đến nỗi!

Theo như cách nói của y học, cơ thể nào cũng có sức tự đề kháng. Trước sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh, cơ thể huy động mọi bản năng để tự vệ, tức để duy trì sự sống. Thành thử đòn đánh mạnh nhất đối với một cơ thể là đánh vào khả năng tự đề kháng này. Bấy giờ cơ thể trở nên vô cùng yếu ớt, mọi sự thuốc thang chạy chữa chỉ còn rất ít ý nghĩa.

Đối với sức khỏe tinh thần, tình hình cũng có nhiều phần tương tự. Khả năng tự đề kháng nói ở đây là sự phân biệt hay dở xấu tốt và lòng tin rằng người ta cần phải tốt và có thể tốt. Thiếu đi lòng tin ấy, con người ta sẽ mất hết khả năng tự kiềm chế và tự phấn đấu, sẽ sống buông thả, tùy tiện, rồi rơi vào tội lỗi lúc nào không biết.

Tiếc thay, cách cư xử của người lớn trong một số gia đình hiện nay khiến con cái họ cứ ngấm dần căn bệnh quái ác kia. Tức là một số thanh niên đang mất dần sức đề kháng. Trước sự cám dỗ của thói xấu, họ không còn khả năng chống đỡ.

Như các nhà nghiên cứu giáo dục vẫn nhận xét, thanh thiếu niên thường rất ngại phải nghe những lời giáo huấn từ phía người lớn, nhưng lại thường xuyên quan sát xem người lớn sống ra sao để rồi tìm ra kết luận cần thiết cho việc xử thế. Vậy thì làm sao chúng có thể ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành khi biết rằng bố mẹ chúng chỉ phất lên nhờ khéo léo luồn lọt và giờ đây đang tìm cách tô điểm cho bản thân bằng mấy tấm bằng rởm? Việc nhà nước giao chỉ làm cầm chừng, cái gì có lợi riêng mới sốt sắng thúc đẩy. Giữa các đồng nghiệp nếu không móc ngoặc được với nhau thì đấu đá kèn cựa. Dửng dưng trước mọi lời chê trách. Vào cửa nào cũng tính chuyện lót tay, chạy chọt, và quả thật “nén bạc đâm toạc tờ giấy”, đồng tiền đã thành một thứ dầu mỡ bôi trơn mọi mối quan hệ… Đó là những thói xấu hiện thời đang khá phổ biến trong xã hội, và khó lòng nói rằng chúng không ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của lớp trẻ. Cộng với những kém cỏi của nhà trường (cổ lỗ trong kiến thức và phương pháp giảng dạy; nghèo nàn trong quan niệm về đào tạo; và rồi cũng làm ăn, mua bài, xin điểm, bán bằng cấp…), có thể nói bao nhiêu yếu tố tiêu cực mà hàng ngày mọi người quan sát thấy ở mình và mọi người, và một phần được nói lên trên báo chí, đã làm cho tâm hồn một số thanh thiếu niên trở nên cằn cỗi. Chúng dễ cảm thấy cuộc đời vô nghĩa, những khái niệm mà xã hội cho là đúng đắn đối với chúng trở thành giả dối; thậm chí có những em không thiết sống. Tôi nhớ có lần được nghe kể: một thanh niên vừa đến tuổi trưởng thành thì phạm tội, bị án tử hình. Có mấy cô mấy bác có mặt ở phiên tòa, thương tình, bảo cháu xin giảm án. Có dịp giáp mặt với cái chết, người thanh niên gạt nước mắt nói ra cái điều có lẽ là nghiêm chỉnh nhất trong đời mình:

– Cháu xin giảm án để làm gì? Ở nhà bố mẹ không thương xót cháu; đi học nhà trường bất công; học không có chỗ, học xong không có việc làm – cháu sống để cùng kéo dài cái kiếp dài rạc như các cô các bác hay sao?

Những kẻ đã chết một phần tâm hồn thường dành cho mình quyền làm bất cứ việc gì chúng thích, không biết đến lương tâm, càng không biết đến pháp luật. Và trước mắt, đám trẻ này chỉ thèm hưởng thụ. Còn có môi trường lý tưởng nào với chúng, hơn cảnh nghiện hút?

Trong nếp sinh hoạt cũ của ông cha ta, ngoài nhiều đức tính tốt cũng có không ít nếp sống tiêu cực. Cả Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính lẫn Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh đều có một chương riêng nói về cuộc tiêu khiển, trong đó có mục hút thuốc phiện, và nói rõ cái hại của tục này. Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược cũng nói người mình phải cái thích chơi bời, mê cờ bạc. Ca dao ghi lại trình tự làm ăn sinh hoạt các tháng trong năm, mở đầu bằng hai câu:

Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè

Xưa ta hay bảo đó là nếp sống suy đồi của bọn thống trị. Nhưng giai cấp thống trị cũng là một bộ phận của dân tộc. Vả chăng, điều quan trọng là thói xấu chẳng chừa một ai, khi đã trở nên lưu manh, càng những con người cùng cực càng trở nên bất cần, liều lĩnh.

Vậy là xét về bề nào, cũng thấy nạn nghiện hút trong một bộ phận của lớp trẻ hiện nay có những căn nguyên sâu xa trong cách sống của chúng ta, thậm chí cả trong đạo lý cũng như truyền thống văn hóa. Chừng nào mà những căn nguyên đó chưa được làm rõ và thay đổi, thì những mầm mống bệnh tật còn có cơ nảy nở. Trị đám buôn bán thứ hàng độc hại ấy là rất cần. Song duy trì được đời sống tinh thần lành mạnh để những tệ nạn ấy không có đất mà phát triển – cái đó mới thật là việc cơ bản phải lo. Bởi đây là công việc có ý nghĩa văn hóa, nên giới văn hóa phải có mặt.

VĂN MINH TÚI NY-LÔNG

Chúng tôi đã được biết thứ túi đa năng này ngay trong những năm chiến tranh. Dạo ấy, ny-lông còn là của hiếm. Bằng cách nào đó, nhỡ ra có lần có được một cái túi, thì bất cứ to nhỏ thế nào, cũng phải giữ lại để giặt đi phơi khô rồi dùng tiếp, và nói chung là dùng nhiều lần đến khi nó rách hẳn.

Nay thì túi ny-lông các cỡ to nhỏ rất sẵn và được dùng trong nhiều việc.

Mùa hè, ghé vào cửa hàng nước mía mà vội phải đi, bạn sẽ được người ta lấy ra một cái túi đổ nước mía vào, buộc miệng cẩn thận, sau khi đã đặt vào đó một cái ống hút. Túi ny-lông trong trường hợp này đóng vai trò một cái cốc.

Nông thôn cũng như phố huyện, xưa cái bánh gói xôi tùy loại mỗi thứ dùng một loại lá riêng để bọc. Cái bánh rán được lót bằng lá chuối khô. Lạng cốm thì nhất thiết phải gói bằng lá sen và buộc bằng sợi rơm. Nay thì túi ny-lông đảm nhận hết. Bên những con đường hàng tỉnh bụi bốc mù mịt, ny-lông được dùng để trùm lên đủ mọi mặt hàng. Ny-lông là bao bì bảo đảm vệ sinh, ny-lông lại là tủ kính.

Hình ảnh người đi chợ ngày xưa là phải cái rổ cắp nách. Nay có làm ma to cỗ lớn, các bà nội trợ cũng yên tâm ra chợ không phải mang rổ đi. Thứ gì cũng đã có túi thích hợp để cho vào là vừa.

Tôi ngồi đấu hót với mấy người bạn:

– Đôi khi có dịp nhìn vào thùng rác gia đình, thấy lồng bồng đủ màu ny-lông xanh đỏ, lại nhớ tới những lần TV cho chiếu cảnh bãi rác, các loại túi nhét đầy của quý xếp chồng lên nhau, nghĩ đất không tiêu hủy nổi cũng thấy lo lo. Nhưng cả thiên hạ sống theo kiểu mới thế này rồi, từ chối làm sao nổi? Thôi thì chỉ có cách là MAKENO, tức mặc kệ nó vậy!

– Cái gì tồn tại cũng có lý riêng! Thời buổi ngày nay, vật liệu phải cùng lúc thỏa mãn nhiều nhu cầu. Như với các thứ túi đựng. Phải mềm phải nhẹ, để gấp lại thì không bao nhiêu diện tích, mà mở bung ra thì đựng được mọi thứ. Phải bền để thấm nước không hỏng. Phải bóng lọng để người dùng đỡ xấu mặt. Mà lại phải rẻ để vứt đi không tiếc. Có gì hợp hơn ny-lông bây giờ?

– Nhiều lần mua xong mớ tôm hay khúc cá, tôi vừa ngần ngừ sợ túi rách hoặc không được sạch, các bà bán hàng nhạy cảm ấn ngay cho cái túi to hơn. Túi ny-lông đang trở thành biểu trưng cho sự rộng rãi chiều khách và trình độ văn minh. Trong lúc thành phố chưa thể tự chứng minh rằng mình đang hiện đại hóa (chưa có nhà chọc trời không có đường cao tốc), thì ta tạm lấy ny-lông ra để an ủi nhau vậy.

Túi ny-lông đáng ca ngợi lắm lắm.

Theo thói quen nghề nghiệp, tôi tự nhiên muốn ngâm nga vài câu thơ.

Một cách tự nhiên, tôi nhớ tới bài Ngói mới của Xuân Diệu in trong tập Riêng chung (1960). Hồi ấy miền Bắc nhà cửa toàn tranh tre nứa lá, nên đi đâu trông thấy viên ngói đã cảm động. Xuân Diệu bắt được cái ý ấy, đẩy lên thành một tứ thơ lạ. Lúc đầu có ý kiến cho là bài thơ có phần gượng gạo. Sau đọc mãi thấy hay. Nhiều người đã thuộc. Và đã thử đùa nhại, đặt cho nó những lời mới. Nhiều bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan, của Hồ Xuân Hương xưa, của Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính thời nay (cũng như các ca khúc nổi tiếng của Đỗ Nhuận, của Nguyễn Văn Tý…) vẫn được người đời yêu mến theo kiểu ấy.

Tôi cũng xin làm với bài Ngói mới. Thơ Xuân Diệu mở đầu:

Khắp nơi, trên những đường tôi đi

Tôi đã nghe xao xuyến, rầm rì

Ngói mới.

Trên những đường tôi dạo, tôi qua

Tôi đã nghe nhiều những khúc ca

Ngói mới.

Dù đi nhanh, dù đứng lại nhìn

Trong lòng tôi sắc hãy còn in

Ngói mới.

Trong buổi chiều hồng, trong mai xanh

Mắt tôi giở những trang tốt lành

Ngói mới.

Trong mấy câu này, chỉ cần thay chữ ngói mới bằng chữ túi ny-lông, là đã tạm được, các bạn làm hộ. Riêng mấy câu cuối, tôi muốn gia công thay đổi nhiều hơn, vậy xin đọc thành:

Tôi đi mua bán, giữa thương yêu

Không biết bao nhiêu chỉ biết nhiều

Túi ny-lông.

Muốn xài trọn vẹn, tháng ngày xanh

Nhất quyết lòng tôi sẽ hóa thành

Túi ny-lông.

Có vẻ Bút Tre một chút. Nhưng ngại ngùng mà làm gì, ny-lông hóa là xu thế thời đại thật. Trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà nóng lạnh đột ngột, mưa gió thất thường, rừng cháy sông cạn, rồi sâu bọ phá hoại hoa màu, dịch bệnh không tìm ra thuốc chữa, rồi tham nhũng ngày mỗi sâu nặng, hàng giả bày bán tràn lan, thị trường chứng khoán ngoi ngóp, học sinh giỏi lạm phát khắp các cấp học… thì mọi sự mau mắn xúc động chỉ làm khổ con người. Tốt hơn hết là giúp cho lòng mình ny-lông hóa một cách tự nhiên. Ắt là dễ sống!

NÓI NHIỀU, NHƯ MỘT CĂN BỆNH…

Hay là bây giờ mình lên tiếng xin tăng giá các loại cước điện thoại cố định cũng như di động…

Thú thật là chỉ mới nghĩ thế thôi chứ chưa dám mở miệng, tôi đã tự ách lại ngay được. Thậm chí đắn đo mãi mới dám viết rằng mình từng nghĩ vậy trên giấy. Bởi không cần nhạy cảm lắm, cũng thừa biết là trong con mắt mọi người, riêng việc cái thằng tôi có ý nghĩ như thế đã là một dấu hiệu điên rồ, nếu không nói là một trọng tội. Chắc rằng sẽ có ai đó sẵn sàng mách hộ nên đi khám tâm thần ở chỗ này chỗ nọ.

Mặc dầu vậy, tôi vẫn cứ viết ra đây với tất cả sự tỉnh táo của một người đang kiểm soát được ý nghĩ của mình. Lý do là như thế này: Thời buổi bây giờ chỉ có đồng tiền chế ngự được con người. Ví phỏng, trong muôn một, cái đề nghị điên rồ trên đây được chấp nhận, túi tiền những người đồng bệnh với tôi có bị vẹt đi thật – thì bù lại dần dần cũng có một cái lợi là đỡ đi cái tật nói nhiều đang trở thành một cách ứng xử phổ biến (và nên nói ngay là đã đến mức nặng nề, hoặc như thiên hạ thích nói, một căn bệnh trầm kha, đang hạ thấp cuộc sống chúng ta tới mức thảm hại).

Còn nhớ hồi chiến tranh, Hà Nội cái gì cũng thiếu, chẳng hạn hồi đó, ruột bút chì bi dùng xong, phải giữ để mang bơm lại, hoặc mang đến nộp cơ quan, để đổi cái mới. Vậy mà ngay từ những năm ấy, đã nghe nói rằng ở một số nước trên thế giới xuất hiện tình trạng khủng hoảng thừa, và nói chung một trong những tai vạ chủ yếu của con người hiện đại là họ có quá nhiều thứ để mà lựa chọn. Có điều, chỉ mươi năm nay thì cái cảm giác ngột ngạt của sự dư thừa kiểu nước mình mới thật lĩnh đủ. Ra đường nghĩa là len trong rừng xe. Đến các cơ quan hành chính, lúc nào cũng thấy đã có người xếp hàng. Vào cửa hàng ăn, bàn nào cũng ê hề những thức ăn gọi ra không dùng. Về nhà mở TV ra, hết chương trình đố vui mọi người đua nhau cười hô hố lại đến các loại phim hàng chợ của Tàu… Người sẵn… Của thừa… Và sự nói nhiều là nằm trong cái mạch tự nhiên ấy.

Nhân vật chính trong thiên truyện Tỏa nhị kiều của Xuân Diệu là hai cô gái “lặng lẽ và ngơ ngác; ấy là hai hột cơm”, còn mấy người đàn ông khác cũng đều là những người “biết chung sống với sự buồn tẻ”. Không chỉ riêng Tỏa nhị kiều, mà tôi cam đoan trong nhiều thiên truyện của Thạch Lam cũng như của Nam Cao hồi tiền chiến, con người ta nói ít lắm, chắc chắn là ít hơn thời bây giờ. Khi hình dung lại những năm còn nhỏ, tôi nhớ trong các gia đình mọi người thường lặng lẽ, ông bố chìm đắm trong lo toan về cuộc mưu sinh, bà mẹ thương chồng thương con cắn răng lam làm và trẻ con chỉ nghĩ đến việc nói chuyện với người lớn đã sung sướng. Chẳng phải gia đình tôi độc đáo khác đời, mà ở nhiều gia đình khác cũng vậy. Còn ngày nay bạn thử nghĩ lại xem, có phải khó khăn lắm chúng ta mới tìm thấy một người ít nói. Không những thanh niên huyên thiên bốc phét, trẻ con khóc rất dai, mà những người già cũng nói như cái cách duy nhất để tự khẳng định rằng họ còn sống. Người ta nói nhiều ở đủ các nơi: Trong các buổi họp. Trong các đám cãi nhau. Trong những dịp vui. Lại cả trong những dịp buồn (ví như các điếu văn hoặc các bài phát biểu khi có ai đó chết chẳng hạn).

Đôi lúc thử tách ra nhìn lại mình: tôi cũng đã nhập vào đội quân đa ngôn đa quá từ lúc nào không biết. Có việc phải nói với ai điều gì chưa nghĩ cho chín đã xổ ra ào ào. Cùng một ý, đáng nói một câu thì nói đến hai ba câu. Toàn những sự lắm ngoài ý muốn, nên mới bảo là bệnh.

Đã bao giờ bạn đang làm việc thì bị một người cùng phòng với mình làm khổ bằng cách tán róc với ai đó trên điện thoại chưa? Tôi, tôi cũng thường xuyên có cái khó chịu ấy. Cho đến một lần tôi chợt nảy ra ý nghĩ tự kiểm tra xem mình nói như thế nào. Chao ôi, tôi cũng nói dài không kém một ai. Tôi cũng thường có những chuyến buôn dưa lê vô tội vạ! Chắc chắn nhiều lần tôi đã làm phiền những người chung quanh mà không hay biết.

Bây giờ thì hẳn các bạn cũng thấy rằng cái ý tưởng nên tăng giá cước điện thoại của tôi không phải vô lý. Giống như là sars, bệnh nói nhiều chưa tìm được thuốc chữa. Vậy nên tôi mới thử nghĩ liều như trên, xin tăng cước điện thoại: Không chừng đó sẽ là cách duy nhất để những người như tôi khỏi bệnh. Cố nhiên nếu ai giúp tôi chữa bệnh nói nhiều mà khỏi tốn tiền, thì tôi cám ơn lắm lắm.

THÊM CHẤT TRÍ TUỆ CHO TIẾNG CƯỜI

Khi nói nhiều phen mình và bạn bè đã cười quá tùy tiện, quá dễ dãi cũng là lúc chúng ta cùng thành thật mong ước với nhau rằng trong những ngày vui mỗi người có thể ít cười hơn nhưng đó thật sự là những tiếng cười… có chất lượng cao (tương tự như các loại hàng xịn, hàng xuất khẩu, hoặc xe khách chất lượng cao đang được ưa chuộng).

Gì cũng cười

Trong đời sống, những cuộc giao tiếp giữa người với người được liên tục hình thành và điều bắt buộc ở đây là mỗi người phải có ý kiến rõ ràng. Nói như Nguyễn Văn Vĩnh, “Ta phải biết rằng khi người ta nói với ta là để hỏi tình ý ta thế nào. Ai nói với mình thì mình phải đáp”. Nhưng, vẫn theo Nguyễn Văn Vĩnh (trong bài Gì cũng cười in trong mục “Xét tật mình”, Đông dương tạp chí số 22 năm 1913): “An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì mà dở cũng hì, phải cũng hì mà quấy cũng hì”. Đây có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử ở ta có một người đưa ra cách đánh giá nghiêm túc đối với cách biểu hiện tình cảm nói chung của đồng bào mình. Sau khi in ra, bài viết đã được nhiều người đương thời đồng tình. Một nhà nho nổi tiếng là có tư tưởng độc lập như Phan Khôi vào năm 1931, nhân đọc cuốn tiểu thuyết Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh cũng đã viết trên Phụ nữ tân văn một bài báo, phân tích về cái lối rất kỳ cục “cười ngay ở chỗ không nên cười tí nào”. Về sau, Gì cũng cười còn được Dương Quảng Hàm trích lại trong cuốn Việt Nam thi văn hợp tuyển để học trò trung học cả nước cùng học (có in lại trong tập sách Dương Quảng Hàm con người và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2002).

Cái lối Gì cũng cười này ngày nay vẫn đang được xem như cả một mối di lụy, tức là khi bước sang đời sống hiện đại chẳng những vẫn còn mà lại có những biến tướng rất tinh quái. Vượt đường liều lĩnh, tí nữa gây ra tai nạn cũng cười. Bán hàng giả không xong, bị người ta vạch mặt cũng cười. Cười bông lơn khi nói được mấy câu xỏ xiên xoa đầu thiên hạ. Cười trừ khi lấy bài của người ta in vào sách mình rồi không trả tiền. Cười tiểu nhân đắc ý khi dám làm những việc liều lĩnh người bình thường không dám làm. Cười mãn nguyện khi lừa được người ngay thẳng. Một ví dụ gần đây mọi người kêu nhiều là tiếng cười nhạt nhẽo của một số diễn viên sân khấu hoặc trên màn ảnh nhỏ. Trước khi nói, cười dọn giọng; nói xong lại chấm câu bằng một tiếng cười bất thành nhân dạng. Có thể đoán là chính họ cũng không còn tin vào hiệu quả tiếng cười của mình nhưng không biết làm gì cho đỡ trơ, đành cười gượng như vậy, từ đó làm nên một “phong cách biểu diễn của thời đại”.

Từ cười chạy tội đến cười xí xóa

Lối cười vô tội vạ ở trên vừa nhắc cố nhiên là một cách cư xử không được đẹp lắm. Trước khi bình luận “…Gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng mỏi lưỡi tê môi để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng hì”. Nguyễn Văn Vĩnh trong bài viết trên đã gọi đúng bệnh khi bảo trong cái lối gì cũng cười này “có cái vô tình độc ác; có cách láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên chí không phải nghe hết lời người ta mà đã gièm trước ý tưởng người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta”. Khách quan mà xét, thì nói như thế không sai, song phải nhận nhiều người khi cười cũng không nghĩ sâu xa đến vậy. Mà ban đầu cười chẳng qua là không biết nói gì, hoặc đã trót sai lầm rồi cười trừ cho xong (tạm gọi là một thứ tiếng cười chạy tội), song lâu dần thành phản ứng tự nhiên, và một nụ cười nhạt thếch thường trực trên mặt chúng ta, giống như một thứ mặt nạ không gỡ ra nổi.

Cao ngạo, vô lối

Có những người chưa nói đã cười. Cặp mắt lim dim theo đuổi những ý nghĩ đâu đâu hoặc ngước mắt lên nhìn trời, họ đãi thiên hạ bằng một thứ tiếng cười sảng khoái tự tin tới mức cao ngạo. Cái lối cười ngất này, tưởng là cười cợt vui vẻ đấy mà khiến người nghe nghẹt thở. Khi mệnh danh đó là tiếng cười kẻ cả, người xưa đã gọi đúng bệnh kẻ thích lối cười khoe khoang này: anh ta tự thấy mình thông minh hơn đời; gặp phải quá nhiều kẻ ngớ ngẩn anh ta không nín được phải cười vào mũi những kẻ chung quanh đáng coi thường đáng khinh bỉ ấy. Và bởi anh ta đã cười lên, ấy cũng tức là cái điều anh ta nghĩ đã chắc chắn không thể khác, anh ta không còn ý định thảo luận với chúng ta bất cứ điều gì nữa. Một khi sự kiêu căng đã biến thành tiếng cười như thế này tức là bệnh đã nhập vào lục phủ ngũ tạng và khó lòng tìm được thuốc cứu giải. Loại người này càng cười, chung quanh càng thấy xa lạ.

Đám đông vô ý

So với tiếng khóc, tiếng cười có một ưu thế đặc biệt là dễ lây lan. Thấy một người khóc, ta có thể cảm động thương xót nhưng không dễ gì khóc theo. Trong khi đó chỉ cần thấy một người cười, thì mặc dầu chưa hiểu cơn cớ gì ta cũng cười theo ngay được. Những đám đông nhiều người cùng cười thường được hình thành một cách tự nhiên nhưng chính vì vậy, nếu bị châm ngòi bởi những tiếng cười tầm thường, cái khối người hỗn độn kia cũng sẽ mất hết những sự khôn ngoan sáng suốt để chỉ còn lấy sự cười xằng làm vui, người nhạy cảm dễ cảm thấy một sự đè nén nặng nề thô bạo.

Ảo tưởng

Bằng lương tri thông thường, hầu như ai cũng biết rằng nếu đến phúng viếng một đám ma mà lại bả lả nói cười thì thật có lỗi. Song biết đấy rồi để đấy, ai mà nhớ hết hàng ngày bao nhiêu lần mình tham gia vào những đám cười vô duyên.

Điều đáng nói là sở dĩ đời sống còn đang đầy rẫy những tiếng cười tầm thường tiếng cười vô nghĩa, tiếng cười giả tạo cùng là các loại tiếng cười lạc lõng khác, bởi trong tâm trí nhiều người, theo tôi hiểu, còn đang ngự trị một quan niệm rất lạ: Tiếng cười được tuyệt đối hóa coi như một thứ phản ứng tâm lý lành mạnh. Người ta dùng đủ mọi chữ để tôn vinh một cách hàm hồ cho cái hành động nhiều khi còn mang nặng tính chất bản năng đó. Nào cười là biết lui biết tới. Là lạc quan. Là bao quát sự đời. Là bằng chứng tuyệt vời của sự độ lượng và lòng nhân ái. Còn như tối thiểu thì cười cũng là liều thuốc bổ không mất tiền. Cười được xem như là đồng nghĩa với sự thông minh, sự khôn khéo. Một nhà thơ đã khái quát Khi chúng ta cười, thì mặt chúng ta bỗng đầy ánh sáng. Ôi tiếng cười cao đẹp quá, ai mà chả muốn cười nhỉ?! Có biết đâu cười cho ra cười thật là khó, phải có đời sống tinh thần giàu có lắm người ta mới có được thứ tiếng cười đầy ánh sáng như nhà thơ ca ngợi. Trước những hoàn cảnh ngang trái, một tiếng khóc bi tráng hoặc một tiếng thở dài đúng chỗ, là có trách nhiệm, là cao đẹp và giàu chất nhân bản, chứ không phải những tiếng cười làm dáng, cười vô cảm, cười như một thói quen khó chữa.

NÊN HIỂU THẾ NÀO VỀ TIẾNG CƯỜI
CỦA THƯỢNG ĐẾ?

Còn gì khổ hơn trong những cuộc trò chuyện tiếp xúc hàng ngày chúng ta luôn gặp phải những bộ mặt đưa đám. Ngược lại thật dễ chịu khi được sống bên cạnh những người vui vẻ. Thế nhưng chung quanh tiếng cười cũng có thể có dăm bảy cách hiểu…

Một chút hư vô giả tạo

Những cuộc tranh luận nho nhỏ là một bộ phận trong sinh hoạt tinh thần nói chung của con người hiện đại. Theo lẽ thông thường sau một hồi bàn cãi thể nào cũng có kẻ thua người được, người kém thế hơn nếu có đầu óc phục thiện hẳn phải nghiêm chỉnh nhìn nhận chỗ kém cỏi của mình. Đằng này ở ta những người thua cuộc có một lối thoát khỏi thế bí rất lạ. Là lật ngược câu chuyện, coi mọi việc chẳng qua là trò đùa và cười, cười lấy được. Tiếng cười ở đây là một thứ màn ngụy trang, một cách lấp liếm cốt quên mọi chuyện cho nhanh, thực chất là hành động của con đà điểu rúc đầu vào cánh, lảng tránh tất cả. Đôi khi lại thấy lối cười khẩy, ra cái điều đây chỉ là chuyện vặt ta không thèm chấp, cười để làm nhòe câu chuyện trong một màn sương hư vô. Nó tạm thời gỡ cho người thua cuộc đỡ mất thể diện, thậm chí còn làm cho anh ta có cái vẻ sang trọng hơn người, song thực chất cuối cùng thế nào thì cũng chẳng thoát khỏi mắt thiên hạ.

Có nên biến tất cả thành trò đùa?

Trong một đoạn trước, chúng tôi đã bàn qua tới cái cách của một số người, nói như Nguyễn Văn Vĩnh, là gì cũng cười. Những tiếng cười mà Nguyễn Văn Vĩnh miêu tả thường mang tính cách thụ động và là một lời thú nhận về sự bất lực mà người ta không giấu nổi khi không biết nên có thái độ thế nào trước đời sống.

Nhưng còn một loại gì cũng cười khác, người ta chủ động cười, muốn dùng tiếng cười hóa giải tất cả. Có thể lấy một chuyện đã quá xưa để liên hệ:

Các sử gia thời phong kiến ở ta xưa vốn tiết kiệm chữ nghĩa ít khi nói về tình cảm cá nhân của các nhân vật lịch sử, nhất là trong chuyện vui đùa. Vậy mà họ vẫn phải dành cho Lê Long Đĩnh (tức Lê ngọa triều) một ít dòng ngoại lệ. Theo cách trình bày của Khâm định Việt sử thông giám cương mục, thì ông vua chết trẻ này (sinh 985, mất 1009) có lẽ là vị vua hay cười nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhiều hành động của vua được miêu tả chỉ có một chủ đích là mua vui: Sai một gã phường chèo chuyên lóc thịt người có tội rồi bảo rằng nó không quen chịu đau và “cười ha hả”; bắt tù binh trèo lên ngọn rồi ở dưới chặt cây, thấy cây đổ thì “cười khanh khách” (Chữ trong ngoặc là lấy nguyên văn từ cuốn sách nghiêm túc đã dẫn). Cái sự thèm cười của vua phát triển đến mức Khâm định Việt sử thông giám cương mục còn kể “mỗi khi coi chầu, thể nào nhà vua cũng sai những kẻ khôi hài đứng hầu ở hai bên, nếu có ai nói gì thì chúng liến láu nói theo mà cười ồ, để làm át và đánh lạc những tiếng tâu bày việc nước của các quan”. Nếu những tiếng cười nói trên ít nhiều có mang những nét bệnh hoạn, thì cái cười cuối cùng kể ra ở đây phơi bày một quan niệm sống, một trình độ của văn hóa trị nước mà nhà vua lúc ấy là kẻ đại diện. Dù có thể là Lê Long Đĩnh không có ý thức, song suy cho cùng, qua cái việc cười giễu cả những chuyện nghiêm chỉnh như thế này, nhà vua dường như muốn bảo rằng không có cái gì trên đời là quan trọng, cái gì cũng có thể mang ra làm trò đùa, kể cả những việc liên quan đến vận mệnh của đất nước. Cái bệnh thích cười như thế không ai có thể thương được!

Liệu có thể xem là những kỳ tích?

Từ bao đời nay, nhu cầu về tiếng cười vẫn là một nhu cầu chính đáng. Bởi lẽ vậy mà văn học dân gian nước nào thường cũng có một bộ phận gọi chung là truyện cười, riêng ở nước ta người xưa còn sáng tạo nên những truyện Trạng với một nhân vật xuyên suốt lấy chuyện chọc ghẹo thiên hạ cho mọi người vui làm lẽ sống. Sở dĩ người xưa cười nhiều như vậy có lẽ là vì đời sống hàng ngày đã khổ quá, trước những tai họa tự nhiên và xã hội, con người ta nhiều phen bất lực không có cách nào đề kháng, phải lấy tiếng cười để giải tỏa mọi ẩn ức. Suy cho cùng, đó là chính là một thứ biến tướng của phép thắng lợi tinh thần không ai bảo ai song đã lây truyền từ đời nọ sang đời kia, và tuy không được định danh đàng hoàng, song ra đời còn sớm hơn sự áp dụng còn uyển chuyển hơn ngón võ của chú AQ bên nước Tàu mà ngày nay nhiều người vẫn ham đọc. Có điều, gần đây một số người có xu hướng tuyệt đối hóa những tiếng cười này và đề chúng lên như một chiến công trên phương diện tinh thần. Mấy năm nay, các loại sách ghi chép tiếng cười dân gian là một món kinh doanh có lãi và được xuất bản thường xuyên, ví dụ như truyện Trạng Lợn. Trong khi vẫn kể toàn chuyện ông Trạng ngẫu nhiên may mắn ra sao, nói liều gặp thời như thế nào thì một trong những cuốn sách loại này được đặt tên khá mĩ miều là Kỳ tích Trạng Lợn, với hàm ý biểu dương vô điều kiện ông Trạng dân gian. Thật chưa bao giờ hai chữ kỳ tích lại bị lạm dụng đến thế.

Tiếng cười đối lập hay tiếp tục sự suy nghĩ?

Khi ca ngợi tiếng cười, một số người gần đây thích dẫn lại câu tục ngữ Do Thái mà nhà văn Pháp gốc Séc M. Kundera dẫn ra nhân bàn về tiểu thuyết: Con người suy nghĩ còn Thượng đế thì cười (Milan Kundera Tiểu luận, Nguyên Ngọc dịch, NXB Văn học, 2001). Người ta cố ý gán cho câu tục ngữ tuyệt diệu ấy một nội dung thực dụng: cái cười là cao hơn sự suy nghĩ, mọi sự lao tâm khổ tứ đều vô bổ chẳng hề mang lại một lợi ích cụ thể, vậy tốt hơn hết là cười cho xong, cười thoát thân, cười để khỏi bận tâm trước chuyện đời rắc rối. Nhưng liệu có nên dừng lại ở một cách hiểu theo nghĩa đen như vậy? Theo tôi hiểu, suy nghĩ là cả một đặc ân mà Thượng đế dành riêng cho con người, trong khoa học nhân văn có một từ riêng mang tên homo sapiens để chỉ một giai đoạn phát triển quan trọng mà loài người đạt tới, kể từ đó nhân loại mới thực sự trưởng thành. Mặc dù không bao giờ đạt tới chân lý tuyệt đối, song nhờ liên tục suy nghĩ, con người vẫn ngày càng tiến tới trong sự nhận thức đời sống. Có điều trong khi sống với niềm tin “Tôi tư duy vậy tôi tồn tại”, thỉnh thoảng họ cần một chút nghỉ ngơi vui vẻ trước khi đi tiếp và tiếng cười được đề cao là với nghĩa ấy, bản thân tiếng cười của Thượng đế nói ở đây cũng đầy chất trí tuệ. Nên chú ý thêm là trong kho từ vựng của Kundera có một từ mà thường người ta để nguyên không dịch, đó là kitsch. Theo ông, kitsch là cái nhu cầu tự nhìn mình trong tấm gương dối trá, nó cũng là thái độ của kẻ muốn tự làm vui bằng bất cứ giá nào mà Kundera không bao giờ chịu nổi. Thành thử nếu cho rằng câu tục ngữ trên được đưa ra như lời kêu gọi vứt bỏ tư tưởng và thay bằng tiếng cười dễ dãi rồi tự cho rằng như thế là mình đã đạt tới sự hiền minh của Thượng đế, thì đó không chỉ là đi ngược với trí tuệ dân gian mà còn đi ngược với chính Kundera nữa.

NẾP SỐNG NẾP NGHĨ

TỪ KIẾN THỨC ĐẾN NHÂN CÁCH

Sự trôi nổi của giá trị

Ở Hà Nội mấy chục năm trước có những người vốn dòng dõi quý tộc hẳn hoi, song lại thường xấu hổ với dòng dõi của mình hễ ai vô ý nói xa nói gần rằng thời xưa ông tổ họ hoặc gần hơn, cha anh họ đã từng giữ chức nọ, chức kia, họ thường sầm ngay mặt lại, khó chịu như bị xúc phạm. Chỉ khoảng chục năm nay, người ta mới bắt đầu làm ngược lại. Tức là công khai chấp nhận giá trị dòng dõi, thậm chí sẵn sàng khoe khoang là họ nhà mình đã từng có người làm đến thượng thư, tổng đốc…

Đối với hai chữ trí thức, cũng có tình trạng tương tự. Hồi trước, không ít người, dù hàng ngày lao động trí óc hẳn hoi, song rất ngại khi thấy mình được liệt vào phần tử trí thức. Người ta cứ muốn lẫn đi giữa mọi người bình thường, và sẽ rất vui lòng nếu được gọi chung bằng mấy chữ: cán bộ. Sự hãnh diện được là trí thức chỉ vừa đến trong khoảng một hai chục năm qua (ở đây, tôi chỉ nói trong phạm vi tâm thức dân gian; chứ trong các tài liệu chính thức, hai chữ trí thức được xác định ra sao, lại là chuyện khác!).

Sự thăng hoa

Lúc coi thường, lúc xem trọng là vậy, nhưng không phải ngay lập tức người ta đã có cách hiểu đúng với các danh từ được sử dụng.

Từ điển Hoàng Phê ghi: Trí thức là những người “chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”.

Đây cũng là cách giải thích bắt gặp ở nhiều từ điển khác và phù hợp với cách hiểu thông thường của nhiều người. Ở chỗ này, có thể có một sự liên hệ: thường nhiều người chỉ hiểu hai chữ lưu manh là vô nghề nghiệp, là ăn cắp, ăn trộm… Song có lẽ nên nói đầy đủ hơn: lưu manh là cả một lẽ sống tùy tiện, bất chấp chuẩn mực quy tắc đạo lý. Với tâm lý lưu manh, người ta có thể làm bất cứ việc gì miễn là có lợi cho bản thân. Quay trở lại với khái niệm trí thức thì phải nói trí thức chính là đảo ngược trở lại và như vậy, điều quan trọng ở đây không phải là trình độ kiến thức cao (ví dụ: từ đại học trở lên) mà là phẩm cách con người. Một trí thức chân chính luôn luôn bị ràng buộc bởi những điều mà họ tin tưởng. Với họ, cái chân, cái thiện và cả cái mỹ nữa – quan trọng hơn cái lợi. Lẽ tự nhiên, dù vẫn là những con người cụ thể có cá tính riêng, song người trí thức không bao giờ là kẻ tham bạo, lừa gạt, lười biếng, hiếu danh, tàn nhẫn… Sự khiêm nhường của họ bắt nguồn từ những hiểu biết sâu xa về mối quan hệ cá nhân và xã hội, họ nhìn những người ít học một cách độ lượng và bằng lòng với phần đóng góp thiết thực của mình trong việc thúc đẩy xã hội tiến tới. Hồi cuối thế kỷ XIX, nhà văn Nga Tchékhov đã nói: trí thức, đó chính là lương tâm của nhân dân.

Kiến thức đã biến thành nhân cách như thế nào và tại sao ở một số người quá trình này không xảy ra?

Đằng sau một kiến thức cụ thể, thường khi ẩn chứa một nội dung nhân văn nhất định. Một phát minh trong kỹ thuật, một định lý mới tìm ra trong toán lý, hay một quy luật ngày càng được kiểm tra là chính xác trong khoa học xã hội… mang sẵn trong lòng nó một quan niệm về tính hợp lý của đời sống hoặc là tiền đề tốt để cho người ta có thêm ý niệm đầy đủ về cái đẹp, cái thiện. Ở những người lao động trí óc có đời sống tinh thần lành mạnh, quá trình đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn mà họ theo đuổi đồng thời cũng là quá trình để bức tranh thế giới trong họ thêm hoàn chỉnh và, mỗi ngày một ít, cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử với đồng loại… ở họ cũng theo đó mà hình thành nên những nền nếp tốt đẹp. Tưởng như kiến thức, bên cạnh vai trò cụ thể trong công việc, đã được thăng hoa để tinh lọc lại, làm nên nhân cách, và đây mới là chỗ phân biệt giữa “người đọc nhiều biết nhiều” với các trí thức thực thụ.

Nói vậy, vì trong thực tế vẫn tồn tại loại người tuy có tiếng là trình độ kiến thức bậc cao, song vẫn không phải là trí thức, tệ hơn nữa một số trong họ sống như lưu manh, hay nói đúng hơn vẫn để cho tinh thần lưu manh chi phối cách sống (nịnh trên lừa dưới, bon chen, cầu lợi, ham hưởng thụ, độc ác tàn tệ với đồng nghiệp…).

Tại sao xảy ra tình trạng như vậy? Ở đây có thể có hai giả thiết:

Trường hợp thứ nhất, khá đơn giản: có người nghe rất oai nhưng sự thực kiến thức là kiến thức giả, chắp vá nhặt nhạnh, đương sự đã đạt tới bằng cấp qua con đường tà đạo, một số trong họ chẳng qua chỉ là những kẻ lợi khẩu, dễ lòe người chứ thực ra bên trong trống rỗng.

Lại có trường hợp thứ hai, hơi khó lý giải hơn một chút. Ở một số người, kiến thức là thứ thiệt hẳn hoi, họ giỏi giang, họ sâu sắc song nhìn vào cách sống, vẫn không phải trí thức. Tại sao? Trên nguyên tắc, có học hành là có xảy ra sự thẩm thấu của kiến thức vào con người để biến thành nhân cách. Nhưng trong thực tế đấy không phải là quá trình xảy ra đồng đều nhất loạt ai cũng như ai. Chẳng hạn, có những người vì nhiều nguyên nhân khác nhau (do di truyền, do giáo dục, hoặc do những bất hạnh gặp phải lúc nhỏ) mà giỏi gian manh vụ lợi, sự lừa bịp, lối sống hiện đại chung quanh… đã ăn vào máu, dù có đọc nhiều hiểu biết rộng đến đâu, vẫn cứ đường cũ mà đi, niềm tin cũ mà sống. Cái phần tinh hoa của kiến thức khi gặp một tâm hồn trơ lì thoái hóa… thì dừng lại, không đủ sức lay chuyển hạt nhân tính cách đã ổn định bên trong. Loại người này đặc biệt lợi hại. Họ năng động, họ hấp dẫn, họ có khả năng lôi kéo thuyết phục chung quanh. Nói chung là họ làm được nhiều việc. Chỉ hiềm một nỗi, họ chỉ lo đắp điếm cho gia đình, hoặc tạo ra cái tiếng tăm cái uy thế ghê gớm cho bản thân cũng như phục vụ cho những mục đích tầm thường. Còn như bảo rằng họ có ích cho nhân quần xã hội thì vẫn không phải.

Cái gì là cấp thiết?

Các vấn đề đặt ra chung quanh khái niệm người trí thức vốn khá đa dạng. Ở một số nước, người ta nhấn mạnh lương tâm trách nhiệm con người trí thức trước xã hội. Ở một số nước khác, người ta thích bàn đến mối quan hệ giữa tự do và phục vụ, dấn thân và “xây tháp ngà” để làm khoa học. Riêng ở Việt Nam, theo ý chúng tôi, trong nhiều trường hợp, câu chuyện nhân cách vẫn nổi lên rõ rệt hơn cả. Một khi người ta còn chưa trở thành chính cái mẫu nguời ta muốn theo, thì bàn thêm những việc khác làm gì cho mệt?!

BÀN THÊM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KIẾN THỨC
VÀ NHÂN CÁCH

Có một lời khen tuy chưa phổ biến lắm, nhưng thời gian gần đây được sử dụng ngày một nhiều hơn:

– Một nhân cách cao quý

– Một nhân cách đáng được kính trọng.

Hai chữ nhân cách nói ở đây có nghĩa na ná như một con người, một nhân cách cao quý tương đương với một con người cao quý. Nhưng theo tôi hiểu giữa con người và nhân cách có sự khác nhau: Một bên là sản phẩm tự nhiên (ta hay nói: ai cũng là một con người), còn bên kia là sản phẩm của quá trình tự đào luyện với sự giúp đỡ của lý trí sáng suốt. Nói cách khác: người ta không sinh ra đã là một nhân cách. Trong quá trình làm ra chính bản thân mình này, cá nhân cần đến sự trợ giúp của mọi mặt kiến thức: Hiểu biết về chung quanh đã cần, mà hiểu biết về bản thân cũng cần thiết không kém. Rồi hiểu biết về xã hội đương thời, hiểu biết về lịch sử. Mà để có được những hiểu biết sâu sắc và chắc chắn, từ xưa đến nay, nhân loại chưa tìm thấy thứ công cụ nào hiệu nghiệm hơn sách vở. Thành thử, dù làm nghề gì đi nữa, trước mắt chúng ta vẫn phải là một người có học.

Nhân cách và đạo đức

Khi nghe chúng tôi nêu ra yêu cầu cao về nhân cách với người trí thức, có bạn đã tỏ ý hoài nghi: lại sắp sửa kéo nhau trở về với lối sùng bái đạo đức cổ hủ? Sự thực ý chúng tôi không hẳn vậy. Nói tới đạo đức là nói tới những quy định cụ thể, đôi khi là những ràng buộc ngặt nghèo mà xã hội muốn cá nhân phải tuân theo để tạo ra một đời sống ổn định. Trong khi đó việc xây dựng nhân cách như trên đã nói, liên quan đến những nguyên tắc bao quát chi phối đời sống tinh thần một con người, do đó thoáng đãng, cởi mở, không đi vào xét nét mà vẫn giữ được sự chặt chẽ. Ví dụ một trong những mối quan hệ ai cũng phải xử lý cho thích đáng là quan hệ nam nữ. Nếu dừng lại ở góc độ đạo đức, người ta chỉ cần đối chiếu hành động của đương sự với những quy định đạo đức đang được cộng đồng chấp nhận để “cho điểm”. Trong khi đó, có thể có một cách khảo sát khác, ấy là tìm ra trong cách ứng xử của đương sự những ý tưởng rộng lớn hơn như quan niệm về tự do, quyền quyết định của mỗi người với số phận của chính mình, lòng tin ở sự thay đổi v.v… Với cách khảo sát này, người ta có khả năng đi vào thực chất của các hành động, và trong một số trường hợp, mở đường cho việc xây dựng những tiêu chuẩn đạo đức mới. Và đấy chính là xét con người theo nhân cách.

Sản phẩm phụ thước đo chính

Nếu không định đi tu, người ta không mấy khi chỉ chăm chắm hướng đời mình vào việc bồi dưỡng nhân cách. Mà nó chỉ là sản phẩm phụ, sản phẩm đi kèm, cùng thu được sau quá trình sống và làm việc của một con người. Nhưng không phải vì thế nó không quan trọng. Giả sử trước mắt tôi là một nhà khoa học. Nếu xét ông ta như một chuyên gia, một người lao động trí óc thì quá đơn giản, chỉ cần xem xét các công trình do ông ta soạn thảo hay phát minh sáng chế là đủ. Nhưng nếu muốn đánh giá ông ta như một trí thức thì phải tìm hiểu rộng ra cả cách sống cách nghĩ cũng như quan niệm của ông ta về nhiều vấn đề thiết yếu của xã hội, tức phải xét thêm về nhân cách. Có thể nói nhân cách là một thứ sản phẩm đặc trưng cho người trí thức, một thứ chỉ số cần đo đạc tính toán khi xét đóng góp của người đó cho xã hội (ở chỗ này, khái niệm trí thức có phần gần với những khái niệm cũ trong Nho giáo như nhà nho, kẻ sĩ, người quân tử).

Một đặc tính cần lưu ý của nhân cách: nó không phải thứ nhất thành bất biến, hoặc “thi một lần lấy bằng rồi sử dụng suốt đời”. Mà nó có bồi có lở, có đến có đi, có thể hoàn thiện dần dần song cũng có thể xói mòn rồi bị đánh mất. Lại có không ít trường hợp sách vở bảo người ta nên đi theo hướng này, mà đời sống lại thầm thì khuyên là nên làm như thế kia mới có lợi, và rồi cả hai yếu tố trái ngược ấy sẽ cùng có mặt trong cách sống cách nghĩ của con người cụ thể làm nên một nhân cách mâu thuẫn. Nhìn chung cả chiều dài lịch sử, có thể thấy hầu như chỉ cái xã hội cổ điển mới có nhân cách thuần nhất; còn hiện trạng nhân cách mâu thuẫn rạn vỡ rất tiêu biểu cho xã hội hiện đại, nó gắn liền với quá trình tha hóa, phân thân thường được nhắc nhở trong các công trình nghiên cứu xã hội học cũng như tâm lý học.

GÁNH VẢI QUẢ ĐI BỘ 4.000 KM
MÀ VẢI KHÔNG HỎNG!

Vài nét về tình trạng học thuật thời nay

Kính gửi ông Lê Mạnh Chiến

Trong tháng ba 2003, tôi và một vài đồng nghiệp, trước hết là ông bạn Lại Nguyên Ân, đã bảo nhau đọc bài viết Phải chăng “nạn cống vải” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan năm 722? của ông, in trên Tạp chí Thế giới mới trong các số 526 – 527 – 528. Bằng kinh nghiệm riêng, chúng tôi biết trong bụng nhiều người rất oán ông. Ông đã làm phiền giới nghiên cứu cũng như các nhà giáo nhiều quá! Chuyện hơi lạ tai, ông chịu khó nghe chúng tôi giãi bày một chút.

Đầu đuôi chỉ là một chi tiết ghi trong nhiều bộ sử in ra gần đây: thời Bắc thuộc khi nước ta đặt dưới quyền cai trị của nhà Đường, dân ta phải cống nộp một sản phẩm là quả vải. Vải tươi phải gánh bộ từ Hoan Châu, tức là vùng Nghệ An ngày nay, sang tận Tràng An, Trung Quốc.

Như ông cũng đã thấy, kết luận trên được rút ra từ nguồn tư liệu dân gian. Chẳng phải là ở Nghệ An có lưu hành một bài ca trù, trong đó có hai câu Sâu quả vải vì ai vạch lá – Ngựa hồng trần kể đã héo hon đó sao? Đây nữa, một bài thơ trong một tập thơ lưu hành theo lối truyền tay, có hai câu kết Đường đi cống vải từ đây dứt – Dân nước đời đời hưởng phúc chung. Thế đã là quá đủ, còn việc các bộ sử nổi tiếng của người xưa như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, hoặc Việt Nam sử lược không hề thấy có chuyện gánh vải thì nên lờ đi, lôi ra làm gì!

Theo sự thống kê của ông, tính sơ sơ có tới 8 bộ sử của 25 tác giả khác nhau cùng viết như trên. Trong số này, sách viết cho bậc phổ thông có, sách viết cho bậc đại học có, sách tra cứu loại hàn lâm có, sách phổ biến khoa học lịch sử có. Các sách ấy đều in ra ở các nhà xuất bản có uy tín và tác giả đều là các nhà nghiên cứu khả kính, tên tuổi thường có kèm theo những học hàm học vị loại xịn.

Chẳng phải sự nhất trí tuyệt đối của cả giới sử học, như ông nói, đã là một bảo đảm cho nhận định trên hay sao?

Vậy mà ông nỡ xem như chuyện không thể tin được. Nào là do chỗ khi chín khó bảo quản, vải không thể là thứ để cống nạp theo hành trình đã nói trên. Nào là ngay vải Thanh Hà ở vùng Hải Dương nổi tiếng cũng chỉ mới có từ đầu thế kỷ XX; còn ở Nghệ An xưa nay chỉ có loại vải cùi mỏng và chua, cùi to.

Rồi ông tiếp tục kê cứu tỉ mỉ. Như tính đường từ châu Hoan xưa đến Tràng An là khoảng 4.000 km tức bình thường đi phải mất khoảng tháng rưỡi mới tới. Như đọc lại các tài liệu thư tịch xưa có liên quan đến cây vải và việc cống vải (trong đó có bài thơ nổi tiếng của Đỗ Mục đời Đường). Như việc đi vào thực địa khảo sát các giống vải ngon ở nước ta, trong đó có cả khảo sát lai lịch một cây vải giống ở Thanh Hà. Như tra cứu lại các bộ sách cổ của Trung Quốc xem hai chữ Giao Chỉ và Giao Châu có đến 6 định nghĩa khác nhau như thế nào.

Tuy ông không nói ra, nhưng qua cách ông trình bày, thì hóa ra một người nghiên cứu phải biết nhiều thứ quá. Phải biết ngoại ngữ, và nếu biết cả một thứ chữ phương Tây lẫn chứ Hán thì càng tốt. Phải lần về các tài liệu gốc. Phải có lối tính toán tỉ mỉ như một nhà khoa học tự nhiên. Lại phải đi thực địa hỏi han về con người cảnh vật từng vùng đất. Ôi chao là phiền phức! Thời buổi bây giờ, các cử nhân phải lo có công trình để lấy bằng thạc sĩ, các thạc sĩ phải nhăm nhe trở thành tiến sĩ, các tiến sĩ phải lo chạy cho có đủ số giờ cần thiết để trở thành giáo sư, ai hơi đâu mà ngồi kỳ cục tính toán chung quanh một ít chi tiết lặt vặt từ hơn một ngàn năm trước!

Ông có thể trách tôi là bi quan quá, nhưng, với tư cách một người thỉnh thoảng cũng có nêu ra một vài chuyện sai sót, tôi muốn chia sẻ với ông một chút kinh nghiệm: chẳng ai nghe ta đâu. Năm ngoái năm kia, báo chí đã mấy lần nêu lên cái chuyện ở vài địa phương có dựng lên những di tích lịch sử giả để kéo người tới lễ bái. Nhưng thử hỏi từ đó đến nay, có bao đền chùa rởm đã bị dẹp? Hay không ít trong số đó vẫn tồn tại như thường và biết đâu đến lúc nào đó người ta lại chạy được cả cái bằng di tích lịch sử đã xếp hạng, cấm vi phạm!

Chẳng cần nói đâu xa, hãy trở lại bài viết của ông: mặc dù in ra trên một tờ báo có đề rõ là Tạp chí của Bộ Giáo dục và đào tạo, mà đâu đã thấy có giáo sư hoặc tiến sĩ sử học nào lên tiếng, hoặc đồng tình, hoặc phản bác lại.

Thôi ông ạ, về bảo con cháu cứ theo sách mà học để còn kiếm điểm thành học sinh giỏi. Còn như cái chuyện chất lượng khoa học ấy ư, giới nghiên cứu nói chung và những người viết sách giáo khoa đang bận quá rồi, chúng ta có trách nhiệm không được làm phiền họ.

TÂM SỰ NGƯỜI ĐI HỘI THẢO

Sắp đến lễ kỷ niệm 25 năm ngày mất của một nhà thơ nọ. Sinh thời ông được coi như một trong những cây bút hàng đầu của đời sống văn học nên lẽ tự nhiên là đơn vị sở tại nơi nhà thơ này công tác lo làm một cuộc hội thảo, một việc rất hợp lòng người.

Về mặt cá nhân mà nói, tuy không có một văn bản nào quy định sẵn, song ai cũng hiểu thời nay được mời dự một cuộc hội thảo nào đó tức là một phen tên tuổi người làm khoa học được khẳng định.

Có lẽ vì vậy mà nhà nghiên cứu X. bạn tôi không khỏi đau khổ khi buộc phải từ chối tham dự cuộc hội thảo sắp tới. Anh tìm đến tôi để than thở:

­- Khổ lắm, ngày giỗ kề tận nơi thì người ta mới đến mời, làm như là lúc nào mình cũng rỗi, và chỉ ngồi vào bàn khoắng bút là xong. Kiểu mời như vậy tức đã coi các báo cáo chẳng ra gì rồi. Đến lúc mình vừa gãi đầu gãi tai nghĩ ngợi thì lại được ngay một câu thúc giục: Xin anh quyết định ngay cho nếu không còn mời người khác. Chỉ còn thiếu cách nói trắng ra rằng chẳng qua tôi nể anh nên mời thôi, chứ không có anh đã có người khác, vậy thì còn gì mà không từ chối phắt.

Ra thế! Trông vẻ đau khổ của bạn, tôi đành yên lặng chứ không dám nói gì thêm, trong bụng thầm nghĩ không ngờ bạn mình lạc hậu quá: thời nay người ta làm hội thảo để lấy thành tích và đi hội thảo cho vui chứ mấy ai tính chuyện chất lượng mà anh lo. Còn như quan niệm về người báo cáo ấy ư? Trong học thuật thời nay, chỉ có trật tự duy nhất là trật tự quan chức hoặc học hàm học vị, ngoài ra không cô thì chợ cũng đông, và điều quan trọng nhất: Anh đòi anh được công nhận như một tiếng nói buộc phải có nếu không thì không ra hội thảo ư? Nói thật nhé, cái ý nghĩ loại đó không bao giờ có trong đầu chúng tôi.

Không rõ hôm ấy tôi khéo đóng kịch ra sao mà anh bạn quá tin, còn tiếp tục dốc bầu tâm sự:

– Khi thấy mình lưỡng lự, người đến mời không quên bổ sung, rằng hôm ấy có truyền hình về quay, nói xong tỏ vẻ thương hại rằng ngon lành như thế cơ mà, lẽ nào một người có lý trí bình thường lại bỏ qua. Thì ra họ coi mình là loại đi họp chỉ thích nhoi lên hàng đầu để máy quay lia qua vài giây, về nhà dọa vợ con, thế là cái máu tự trọng dở hơi nổi lên, nhất định cám ơn tạm biệt.

Cái may của anh bạn tôi là vẫn còn một chút tỉnh táo, nên mới tự nhận là mình dở hơi, và thú thực rằng mình thấy tiếc. Nhưng dẫu sao anh đã không nhận lời, tức đã nhất quyết là mình. Cá nhân anh còn thế, thử hỏi những người tổ chức hội thảo làm sao họ thay đổi quan niệm vẫn có, nào là chuẩn bị thật chu đáo nào là mời bằng được người nọ người kia phát biểu, toàn những việc làm phiền cho họ chứ không thể giúp họ sang trọng hơn? Rồi họp hành lộn xộn chẳng ai nghe ai, rồi có những người đi họp chỉ vì phong bì (có ban tổ chức chỉ thích phong bì thật nhẹ để mời được rộng; khi thế bắt buộc phong bì phải tương đối nặng thì người ta chỉ dành giấy mời cho những người cánh hẩu) – làm sao liệt kê hết ra đây những điều lạ lùng quanh ta? Có điều một năm có bao nhiêu cuộc hội thảo tương tự như hội thảo về nhà thơ nọ,tôi biết rằng không đi đám này rồi bạn tôi, với tất cả sự nhạy cảm của mình, sau cơn bực bội, lại phải có mặt trong đám khác, chắc anh không đủ sức mà từ chối mãi. Bởi có một câu mà người ta thường nói với nhau và tôi đoán trong bữa cơm chiều trong gia đình vợ con anh cũng nói với anh, khi nghe từ chuyện tham nhũng, chuyện cháy rừng, tới chuyện ngộ độc thức ăn:

– Thời buổi này, nước nào chẳng thế!

CÓ PHẢI LÀ THẤT ĐỨC?

Xã hội hiện đại là cả một guồng máy khổng lồ nó cuốn người ta đi và sự thực là nhiều khi chưa biết rõ việc làm của mình có ý nghĩa gì, nhiều người đã phải lao vào hành động để đáp ứng sự đòi hỏi của hoàn cảnh cũng như để tạo nên những bước đi nhịp nhàng với các đồng loại. Đến khi có dịp nhìn lại những lần “nhắm mắt đưa chân” kiểu ấy, người ta không khỏi bỡ ngỡ, như là ai khác chứ không phải mình đã làm việc này việc nọ. Song thì giờ dành cho phản tỉnh đâu có nhiều? Và thế là các kịch bản cũ, nói chung lại được tiếp diễn, kể cả các bi kịch. Và tôi ngờ rằng dù đã tỉnh táo đến đâu, nhiều khi chúng ta vẫn không hình dung hết quy mô của tấn bi kịch mà chúng ta đã thể nghiệm. Từ đây, lại dễ sinh ra thói xuê xoa, lấp liếm, thái độ lảng tránh sự thực, tức là cái bi kịch về sau thường đá thêm một chút sắc thái hài kịch.

Dưới đây, tôi thử nêu lên một bi kịch nhỏ, mà một số người quen của tôi đang trải qua. Tôi thành thật tin rằng các nhân vật của bi kịch không phải không nhìn thấy tình thế của mình. Có điều, nói như A.Camus, khi đã xuống thuyền rồi người ta không thể quay trở lại được nữa.

Ấy là câu chuyện về một công việc đáng lẽ rất sang trọng. Việc một số giáo sư tham gia đào tạo lớp người kế tục, các phó tiến sĩ (nay đã đổi là tiến sĩ).

Từ nhiều năm nay, anh Ng. tôi quen thường xuyên phải làm việc đó, bởi trong chuyên ngành nghiên cứu văn học, anh thuộc loại đầu đàn. Thời gian đầu, mỗi khi gặp nhau anh rất hay đả động tới chuyện này. Luôn luôn anh nhăn nhó và kể với tôi là các ông bà phó tiến sĩ tương lai ấy buồn cười lắm. Việc học ở ta, từ lớp dưới, vốn đã rất yếu nên sau mười mấy năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, mang tiếng là đã xong đại học mà nhiều khi “chẳng hiểu nếp tẻ gì cả” (trong ngôn ngữ hàng ngày, Ng. thường thích thậm xưng một chút như vậy). Nhưng có lẽ do sự nhạy cảm đặc biệt trước nhu cầu thời đại, một số trong họ lại rất sính bằng cấp, có thể nói là muốn đạt tới bằng cấp bằng mọi giá. Thế là hình thành nên một nhu cầu mà những người như Ng. phải lấp đầy. Song làm mà vẫn ngại, vừa làm vừa chán chường. “Nhiều khi phải tự nhủ là mình đang làm những việc chả dây dưa gì đến văn chương thì mới dám tiếp tục” – anh Ng. có lần tâm sự.

Nhiều năm đã trôi qua, mọi chuyện hầu như không có gì thay đổi nếu không muốn nói cứ đuối dần đi nữa. Tôi hiểu như vậy, khi thấy dạo này Ng. ít nói tới chuyện đào tạo. Trong hoàn cảnh của một người đã đến tuổi về hưu sắp lo làm sổ, anh chỉ còn mải miết tính nốt những việc đang dở dang và đáng lẽ nên để cho anh yên thì phải hơn. Thế nhưng trong cuộc đời này, ai dám bảo đảm là đã vắt kiệt cái máu Đông Ki-sốt trong người? Không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường thế nào, chính tôi lại có lần máy mồm trở lại hỏi han về cái chuyện đào tạo của Ng:

– Thế sao anh vẫn tiếp tục nhận hướng dẫn?

– Đây là việc nhà trường giao cho, từ chối sao tiện? Hàng năm từ trên bộ đã có chỉ tiêu là phải đào tạo từng này từng kia người.

– …

– Với lại không mình hướng dẫn thì người khác hướng dẫn. Guồng máy chung nó chạy theo hướng nó, mình có đi ngược lại cũng vô ích.

Đến chỗ này thì tôi hiểu. Và tôi chợt nhớ ra những lời đồn đại của mọi người chung quanh về khía cạnh chính của vấn đề. Là không vất vả như luyện thi, nhưng công tác đào tạo trên đại học bây giờ cũng vớ lắm, càng học trò ở các tỉnh xa hoặc loại kém cỏi không biết gì càng nộp những phong bì nặng cho thầy. Không ai công bố con số cụ thể bao nhiêu, song người ta vẫn nói giăng giăng với nhau cả chỗ riêng tư lẫn chỗ đông người. Chẳng cần tinh ý gì lắm cũng có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt của Ng. Từ chỗ chê ỉ chê eo, anh đã hồn nhiên nhập cuộc. Bao nhiêu tài năng và nghị lực vốn có được anh đem dồn tất cả cho cái mục đích cụ thể mà người ta đã cột anh vào. Anh mang lại cho nó những ý nghĩa bất ngờ. Anh say sưa. Anh mê mải. Giờ đây có ai đó trong đám bạn bè tâm huyết lảng vảng định nói tới công tác hướng dẫn luận án, anh không bắt lời nữa. Khi nói xa khi nói gần, anh gợi cho người ta cảm tưởng đây là chuyện mâm cơm nhà anh, và thiên hạ sẽ bất lịch sự, nếu cứ nhìn vào đó một cách soi mói.

Không phải chỉ riêng anh Ng. của tôi rơi vào tình thế nói trên. Mà ở ngành nào, người ta cũng nghe những lời than thở và cách xử lý tương tự. Bởi vậy, tôi muốn được phép bàn rộng ra một chút. Các cụ xưa có hai tiếng “thất đức” để chỉ những việc làm để lại di hại cho nhiều đời sau. Giá bây giờ tôi bảo với những người như anh Ng. rằng công việc các anh làm có thể phải gọi là thất đức, lập tức sẽ có nhiều lý lẽ phản đối. Các anh là những giáo sư giỏi. Các anh chỉ đi dạy học, lo truyền thụ kiến thức cho người khác. Xưa nay, ở xứ ta, nghề dạy học cũng như nghề làm thuốc bao giờ cũng được trọng vì người làm nghề chỉ lo trồng cây đức cho thêm tốt tươi, chứ sao gọi là thất đức được? Nhưng thử nghĩ, dưới tay anh Ng. – “mang nhãn hiệu của anh Ng.” – bên cạnh những cán bộ khoa học tạm được, cũng đã có bao nhiêu tiến sĩ rởm. Mà càng những người kém chuyên môn càng giỏi xoay xỏa, leo trèo. Sau khi có bằng cấp, một số trong họ sẽ đóng những vai trò trọng yếu trong nghiên cứu khoa học và đào tạo các lớp người sau. Nói cách khác, lớp người có bằng cấp rởm sẽ đông lên theo cấp số nhân. Mà truy tìm cú hích đầu tiên, vẫn phải gọi tên của Ng. và những đồng sự của anh. Tôi rất ngại dùng chữ thất đức, nhưng chưa tìm ra chữ khác đích đáng hơn.

BẢY BƯỚC TỚI THA HÓA

Mỗi chúng ta đã tự đánh mất bản thân như thế nào?

Hồi nhỏ, cũng như một số bạn bè cùng tuổi, tôi là đứa trẻ đãng trí, hay đánh mất những thứ lặt vặt: khi cái mùi xoa, cái mũ, khi quyển truyện, hoặc cái bút chì. Thông thường bố mẹ ở nhà cho qua không mắng mỏ gì đáng kể. Nhưng đâu một hai lần, tôi nhớ không những bị đánh cho mấy roi cứ gọi là quắn đít, mà còn bị hỏi căn hỏi vặn:

– Mẹ đã nhắc con giữ cẩn thận cơ mà.

– Chạy nhảy thế nào mà rơi rụng hết, kể lại xem nào!

– Thử nhớ lại xem, con đánh rơi ở đâu? Con đã để ý đi tìm chưa?…

Đến bây giờ tôi cũng không nhớ lần ấy đánh mất cái gì, chỉ đoán chắc là mấy thứ đắt tiền lắm, chứ không phải ba cái đồ vớ vẩn như mọi khi. Người ta chỉ phải suy nghĩ về sự mất mát khi cái bị đánh mất được coi là quan trọng.

Liên hệ tới chuyện ngày nay:

Niềm thiết tha với cái tốt cái đẹp vốn nằm trong tâm trí chúng ta từ thuở thiếu thời, khi đang còn cắp sách đến trường. Mấy chục năm nay, Nhà nước cách mạng cũng luôn luôn kêu gọi mỗi thành viên của xã hội gắng trau dồi đạo đức. Câu nói của thầy Mạnh “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” thường được nhắc nhở, vì trong một hình thức cũ, nó lại diễn tả tốt nhất nội dung chủ yếu của đạo đức mới – sự vững vàng của nhân cách. Nhưng liệu có thể nói là mỗi người chúng ta đã làm được điều chúng ta mong mỏi?

Giả sử bây giờ, ra giữa buổi họp, tôi bảo ông nọ bà kia là thoái hóa biến chất, mọi người sẽ cho tôi là có hiềm khích gì đó với họ, nên mới ăn nói sỗ sàng như vậy. Nếu tôi lại mạnh mồm khái quát rằng nay là lúc không ít người trong chúng ta đang hư hỏng đi, thì người ta sẽ bảo tôi là liều lĩnh vô căn cứ, là không có cái nhìn toàn cục, không thấy “mặt tốt là chủ yếu”.

Nhưng nhiều lúc ngồi một mình tỉnh táo, đối diện với lương tâm, hẳn nhiều người phải công nhận là quanh mình số người hiền lành thánh thiện ngày một ít, số khôn ranh kiếm chác ngày một nhiều thêm. Và tự ta nữa, nghiêm khắc mà nói, ta cũng đang sống không phải như ta mong muốn. Ở đây không nói tới những tội lỗi đã thành danh mục quản lý của pháp luật, mà chỉ nói tới những thói xấu nho nhỏ, những thói xấu vẫn bị coi là không đáng kể, và dễ bị bỏ qua: Xoay xỏa vụ lợi. Làm dở báo cáo hay. Qua loa vô trách nhiệm… Khéo léo tô vẽ mình trước cấp trên. Hùa theo đám đông, nói cho đám đông vừa lòng, chứ không dám nói sự thật… Có phải là không ít thì nhiều, hàng ngày chúng ta đã để cho những thói xấu đó lộng hành? So với con người lý tưởng mà ta muốn noi theo, khi bước vào đời, thì thật ra ta đang xa dần, thậm chí có những phẩm chất tốt mà ta có từ lúc còn trẻ và cứ tưởng giữ được mãi, bây giờ đã bị đánh mất.

Nay không còn là lúc sợ ai lục vấn mình như cậu bé năm xưa nữa. Nhưng có lẽ, với tư cách người có học, sống nhiều bằng ý thức, cũng nên quan sát chính mình xem xem một quá trình tâm lý như thế nào đã xảy ra, khi ta tự đánh mất một phần tốt đẹp ở con người mình vậy.

Dưới đây là một vài nhận xét tôi rút ra từ kinh nghiệm bản thân và qua quan sát những gần gũi chung quanh.

1. Sự kiếm sống hàng ngày là một khái niệm lâu nay chúng ta hay lẩn tránh, và nó chỉ tồn tại như một giá trị ẩn, không được mang ra tính toán công khai. Nhưng phải nhận nó vẫn là nhu cầu có thực, hàng ngày gây sức ép với mọi người. Có nhiều việc ta biết là trái đạo lý song vẫn phải làm, chẳng qua chỉ là nhằm kiếm thêm ít tiền bạc, để cùng với đồng lương còm cõi, duy trì sự sống của bản thân và gia đình.

2. Các thói xấu lấn lướt ta mỗi ngày một ít. Thời gian đầu ta thường vừa làm vừa tự nhủ: chỉ chấp nhận đầu hàng lần này nữa thôi, sau sẽ không bao giờ tái diễn! Nhưng càng về sau, sự dằn vặt càng thưa thớt đi. Đời sống hàng ngày mang lại bao nhiêu căng thẳng mệt mỏi, khiến cho mỗi người chỉ có cách trượt theo thói quen và tránh nhất là gây thêm cho mình những phiền phức.

3. Có một điều thường viện ra để an ủi, ấy là khi thử đưa mắt quan sát thấy không phải chỉ có riêng mình làm bậy, mà chung quanh, cả những người có uy danh hơn, có trách nhiệm hơn, cũng đâu có giữ được lý tưởng – “hơi đâu gái góa lo việc triều đình” – đấy là lý lẽ của những cái đinh ốc bé nhỏ.

4. Khái quát hơn, quả thật có nhiều việc thấy trái với lương tâm ta vẫn cứ làm, vì xem ra chung quanh mình, mọi người đều hành động như vậy. Mà cảm giác sống theo tập thể ăn vào ta rất nặng. Ta sợ trở thành đơn độc, lại càng sợ mang tiếng là chơi trội, dám khác mọi người (!)

5. Người ta ai mà chẳng vừa sống vừa trông trước sau xem cách sống của mình được đánh giá ra sao, và được đền đáp ra sao. Đến lúc thấy bao nhiêu cố gắng của mình cũng vô ích, những người tốt như mình thường thua thiệt, còn những kẻ xấu cứ được đủ thứ, và lại leo cao mãi lên – thì đành ngán ngẩm buông xuôi (Sau khi phát hiện điều này, một số sẽ giãy giụa cốt vớt lại ít quyền lợi mà họ cho rằng họ đáng được hưởng. Từ ấy trở đi, họ dám sống rất tàn bạo).

6. Chắc chắn trong ta không bao giờ chết hẳn con người lý tưởng, con người tha thiết với sự nghiệp chung. Giả sử được xã hội dang tay dìu đỡ, thì sau những lầm lỡ ban đầu, cũng dễ tu tỉnh trở lại. Nhưng mọi chuyện quá ì ạch. Có vẻ như điều mà xã hội mong đợi hơn cả ở các thành viên chỉ là những câu khẩu hiệu chung chung. Cái phần suy thoái trong ta chớp ngay lấy cơ hội thuận lợi đó. Nảy sinh tình trạng phân thân, sống một đằng, nói một nẻo, và bởi lẽ, trước mặt bàn dân thiên hạ, giữa thanh thiên bạch nhật, ta vẫn luôn mồm nói điều tốt, nên càng yên tâm xoay xỏa kiếm chác trong bóng tối.

7. Đến lúc nào đó, ta chợt nhận ra “rằng quen mất nết đi rồi”, có lẽ sẽ không bao giờ hoàn lương được. Sự lo sợ có tới (lo sợ chứ không phải hối hận), và để hòa giải, ta xoay sang cầu cúng, xin xỏ, hối lộ thánh thần. Mê tín chính là mắt xích cuối cùng của sự tự làm hỏng, nhờ có mê tín, các khâu hoạt động khác có thể diễn ra một cách êm đẹp. Đại khái giống như một thứ bảo hiểm!

Khi một đứa trẻ đánh mất của quý gì đó, sở dĩ người ta phải căn vặn hỏi han xem quá trình đánh mất diễn ra như thế nào bởi nghĩ rằng qua đó, giúp cho nó biết giữ gìn của cải và từ nay trở đi không đánh mất nữa.

Quá trình tha hóa, quá trình tự đánh mất mình ở chúng ta có chỗ khác. Ai cũng chỉ sống một lần trên đời, cái gì mất đi vĩnh viễn không lấy lại được nữa.

Vậy cần gì phải mang bản thân ra mà tra khảo cho thêm rách việc?!

Có thể có một số người đã nghĩ thế và họ có lý của họ.

Về phần mình, tôi muốn đề nghị một cách nghĩ khác: ít ra chúng ta cũng nên sòng phẳng với nhau. Sự đánh giá chính xác về bản thân nên được xem như một phần di sản của một lớp người đang sống để lại cho các lớp kế tiếp, và nếu như nhờ thế một phần, mà những người sau ta sáng suốt hơn, không còn đánh mất mình, tức là ta đã trở nên hữu ích.

NGHĨ LẠI VỀ CHÍNH… SỰ NGHĨ

Cổ nhân có câu “chớ có tham bát mà bỏ cả mâm”. Dịch câu nói ấy ra ngôn ngữ hiện đại, tức là trong khi giải quyết mọi việc, ta phải từ bỏ lối nghĩ thực dụng chật hẹp, lối chạy theo thành tích “mì ăn liền”, để hướng tới một cách nghĩ bao quát và sâu sắc hơn. Theo ý tôi đây là một trong những bài học đáng rút kinh nghiệm hơn cả, trước khi bước sang thế kỷ XXI.

Về mối quan hệ giữa làm và nghĩ

Có một câu nói cửa miệng – nhiều người trong chúng ta, kể cả các nhà trí thức, thường hay nhắc lại “nói thì dễ, làm mới khó”.

Một số người khi bắt tay làm một việc gì đó, mà e rằng sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là khi đã làm cái việc cần làm và làm sai, làm hỏng, rồi để chặn họng những lời phê phán của chung quanh, bèn phản bác một cách khéo léo: “ờ nói thì dễ, làm mới khó”.

Theo tôi hiểu chữ nói ở đây không chỉ là phát âm, dùng miệng cất lên thành lời để diễn đạt một ý tưởng nào đó, mà trong văn cảnh đã bao hàm cái ý nghĩ ngợi suy xét, tức vận dụng tư duy để giải quyết một nghi vấn (dân ta có câu: ăn có nhai nói có nghĩ). Vậy thực chất câu nói trên chính là: nghĩ thì dễ, làm mới khó.

Việc đề cao hành động ở đây, có lý do của nó. Trước nhiều công việc khó khăn hàng ngày, người ta chỉ gặp những người đứng ngoài lên mặt dạy khôn, hoặc bình luận lung tung chẳng dựa trên một sự nghiên cứu kỹ càng nào, cũng chẳng có sự xét đoán cụ thể (nói như các cụ xưa: toàn những lời tán thối, bàn quanh bàn quẩn nhạt nhẽo vô bổ, thậm chí nghe rác tai và làm rối ruột những người đang hành động). Trong trường hợp đó, quả thật mới thấy quý người có kiến giải dứt khoát lại quyết đoán và sớm bắt tay vào hành động.

Thế nhưng, bình tĩnh mà xét, thì rồi cuối cùng, cái mà người ta cần, không phải chỉ là một hành động, mà là hành động có hiệu quả cao, tức không chỉ cần người dám làm mà là người làm giỏi, làm đúng. Và muốn làm đúng, phải có trình độ hiểu biết, có sự nghiên cứu tường tận, tóm lại cần người nghĩ đúng. Sự nghĩ ngợi chỉ là dễ, khi nghĩ một cách nông nổi, qua quýt, rồi lấy sự lợi khẩu làm bùa mê, lừa mình, lừa người, gọi là nghĩ mà chẳng có nghĩ gì cả. Còn cái nghĩ có khả năng gỡ rối, giải quyết công việc một cách hợp lý, cái nghĩ đó đâu dễ và câu châm ngôn cần thiết trong lúc này, có lẽ phải là “làm đã khó, nhưng nghĩ còn khó hơn nữa”.

Học nghĩ

Chữ nghĩ ở đây bao gồm cả sự tinh tường trong quan sát lẫn sự sâu rộng trong tầm nhìn, sự thông thoáng trong quan niệm, và sau hết sự nhạy cảm để lường trước mà tránh bớt đi những lỗi lầm đáng tiếc. Trong kho từ vựng của tiếng Việt, một phần sự đa dạng của suy nghĩ đã được mô tả: nghĩ sâu, nghĩ nông, nghĩ rộng, nghĩ hẹp, nghĩ chín và nghĩ chưa chín, nghĩ qua loa và nghĩ nát một điều gì đó. Cạn nghĩ thì chắc chắn là dở rồi, nhưng cả nghĩ chưa chắc đã là điều tốt, bởi sự nghĩ không chỉ được đo tính bằng thời gian hoặc sự khổ công mà cái chính là bằng hiệu quả, chất lượng. Có thể nói người đời hơn kém nhau ở khả năng nghĩ, tầm nghĩ và như vậy, nghĩ không phải là chuyện trời cho, ai cũng biết nghĩ, mà là một quá trình rèn luyện học hỏi, trau dồi, thể nghiệm liên tục. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà khoa học nhân văn đưa ra khái niệm homo sapiens (con người trí tuệ, con người có suy nghĩ) và xem đó là giai đoạn phát triển cao của nhân loại.

Vượt lên trên sự thiển cận và vụ lợi

Có một chiếc đồng hồ ở điện Versailles, Paris, được làm từ 1746 mà đến nay vẫn tiện dụng và hợp thời; đúng nửa đêm 31-12-1999, nó đã gióng chuông và chuyển con số 1 (đeo đuổi trên hai trăm năm) thành con số 2, kèm theo ba số không. Và, “theo tính toán hiện nay, chiếc đồng hồ này còn tiếp tục báo năm báo tháng báo giờ… nghiêm chỉnh thêm năm trăm năm nữa”.

Sở dĩ người xưa làm được việc đó, vì họ luôn luôn hướng về một cái gì trường tồn. Duy cái điều có người liên hệ thêm “còn ngày nay, người ta chỉ chăm chăm xây dựng một tòa nhà dùng độ hai mươi năm rồi lại phá ra làm cái mới” thì cần dừng lại kỹ hơn một chút.

Nếu người ta nói ở đây là chung cho con người thế kỷ XX thì nói thế là đủ. Một đặc điểm của kiểu tư duy hiện đại là nhanh, hoạt, không tính quá xa, vì biết rằng mọi thứ nhanh chóng lạc hậu. Nhưng cái gì có thể trường tồn được, thì họ vẫn làm theo kiểu trường tồn. Chính việc sẵn sàng chấp nhận mọi thay đổi chứng tỏ sự tính xa của họ.

Riêng ở ta, phải nói thêm: trong tình trạng kém phát triển của khoa học và công nghệ một số người cũng thích nói tới hiện đại. Nhưng trong phần lớn trường hợp đó là một sự hiện đại học đòi méo mó, nó hiện ra thành cách nghĩ thiển cận và vụ lợi.

Không phải những người tuyên bố “hãy làm đi, đừng nghĩ ngợi gì nhiều” bác bỏ sự nghĩ hoàn toàn. Có điều ở đây, bộ máy suy nghĩ bị đặt trong tình trạng tự phát, người trong cuộc như tự cho phép mình “được đến đâu hay đến đấy” “không cần xem xét và đối chiếu với mục tiêu lâu dài rồi tính toán cho mệt óc, chỉ cần có những giải pháp tạm thời, cốt đạt được những kết quả rõ rệt ai cũng trông thấy là đủ”. Bấy nhiêu yếu tố gộp lại làm nên sự hấp dẫn đặc biệt của lối suy nghĩ thiển cận, vụ lợi và người ta cứ tự nhiên mà sa vào đó lúc nào không biết.

Khốn nỗi, chung quanh ta, số người suy nghĩ kiểu ấy không phải là ít.

Là thiển cận những người bán hàng chỉ lo lừa khách lấy một lần “chém thật ngọt” mà không tính chuyện bận sau, người khách ấy có trở lại cửa hàng mình hay không. Là thiển cận, những vị “sếp” cơ quan chỉ lo chạy theo thành tích, không cần biết đến chất lượng công việc, và trong việc dùng người, chỉ thích những nhân viên dưới quyền khéo nịnh, dễ bảo, chứ không thích những người có chính kiến riêng. Từ chuyện một người dân đánh được một con chuột trong nhà liền vứt ngay ra đường cho xe kẹp, người bán rau quả còn dính thuốc sâu cho tới những trí thức đánh mất lòng tự trọng, khao khát chức quyền say mê theo đuổi học hàm học vị và sẵn sàng biến mình thành một thứ thầy cúng ê a nhắc lại những điều cũ rích, hoặc những nhà văn chỉ lo có thêm đầu sách để dọa thiên hạ, ngoài ra, sách in ra có không ai đọc cũng không cần biết… quả thật trong mọi phương diện cuộc sống, trong mọi ngành nghề, đâu đâu cũng có thể gặp những người thiển cận, chỉ đối chiếu công việc với những mục đích rất gần. Căn cứ để họ xác định cách sống chỉ là cái khu vực mà họ đang ngụp lặn, bon chen, chứ không có thế giới bao la và những thế kỷ dài dặc nào hết. Ngay cả khi họ tới đền chùa khấn khứa thì cũng chẳng phải họ đang trong tâm thế hướng thượng hoặc để tâm hồn vào một chốn cao siêu nào cả mà chỉ đơn giản là niềm tin rằng có thể tháng sau sẽ… có lộc! Người có kiến văn hạn chế thì dễ thiển cận đã đành. Nhưng cả những người có trình độ tạm gọi là cao, mà để cho cái lợi che mờ mắt, thì cũng rơi vào thiển cận một cách tự nhiên, và cái gọi là trình độ cao kia lại được sử dụng để bênh vực cho cái lối sống lối nghĩ tầm thường, người ta nhanh chóng rơi vào ngụy biện mà không hay biết!

ĐÁNG SỢ NHẤT LÀ NHỮNG CÁCH NGHĨ TƯỞNG NHƯ RẤT CÓ LÝ

Từ câu chuyện nhỏ về mấy thứ rau quả có thể gây ngộ độc…

Trong số những gánh hàng rong bán quanh Hà Nội thì hàng rau vốn có từ lâu đời nhất. Từ sau 1954 lại thêm những chiếc xe đạp đằng sau thồ hai sọt bự chở rau quả cũng len lỏi khắp mọi phố xá, tự chúng đã thành một nét riêng của Hà Nội, làm chứng cho sự có mặt của những người nông dân ở một thành phố có nhiều dây mơ rễ má với nông thôn. Song dăm ba năm gần đây, tự nhiên có chuyện một số hàng rau quả bị phun thuốc sâu quá mức cho phép, ăn vào có thể ngộ độc, nhiều người đâm ngại. Chẳng biết mua cái ăn ở đâu khác, và ham rẻ, người ta vẫn mua, nhưng mang về phải ngâm nước hoặc gọt vỏ mới dám ăn.

Giá kể chuyện xảy ra ở các nước có nền kinh tế phát triển, người ta sẽ có cách đối phó là kiểm tra hàng rồi mới cho mang bán. Nhưng ở ta, cái chuyện rắc rối ấy, ai mà dám nghĩ tới. Cũng chưa ai xác định rằng đây có phải là một thứ tội trạng không và nếu bắt được quả tang người bán thứ hàng độc hại ấy thì sẽ xử ra sao. Rút cục mọi người chỉ đành nhắm mắt cho qua. Người gọi là có trình độ lý luận hơn thì nhấn mạnh:

– Căn bản là phải đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức tự giác cho nhân dân để bảo vệ sức khỏe chung!

Kể ra cách đặt vấn đề như vậy, cũng đã bắt đầu lần ra đầu mối của mọi hiện tượng gọi là tiêu cực. Tuy nhiên, ở đây tôi muốn đi xa hơn một chút.

…tới những triết lý sống mang màu sắc dân gian

Để sang một bên cái chuyện người dân khi phun thuốc sâu quá độ cho phép vào rau quả không biết là nó có thể gây ra độc hại. Cách biện hộ như vậy quá xa thực tế. Xưa nay, nông thôn ta vẫn có lối thông tin khá tùy tiện mà cũng khá hiệu nghiệm, đó là những lời đồn đại. Nữa là bây giờ, báo đài (radio) sẵn hơn, tivi nhiều hơn, hẳn là nhiều người cũng đã biết rõ hậu quả việc họ đã làm. Thế nhưng tại sao họ cứ tiếp tục? Có thể dự đoán là nếu nghe có lời bàn ra tán vào, người ta sẽ chỉ tặc lưỡi:

– Ôi giời! Đau bụng một lúc rồi khỏi. Với lại dân thành phố bây giờ tiền nhiều, lại sẵn thuốc Pháp, thuốc Mỹ, đau mấy rồi họ cũng khỏi.

Tạm gọi đấy là một ý nghĩ giản đơn, nông nổi. Song theo tôi tính, sở dĩ những giản đơn nông nổi ấy nảy sinh, vì ở tận bề sâu, cái ý nghĩ người ta để bụng phải là:

– Mình thì khổ quá, đã vất vả quá. Còn những người ấy thì sung sướng như giời như bể!

Và để đi tới chỗ tự cho phép mình làm liều mà không cần áy náy, có cái điều người ta không nói ra, nhưng chắc chắn đã nghĩ:

– Người khổ có quyền làm bất cứ việc gì miễn là thoát ra khỏi cảnh khổ.

Khi hành động, suy cho cùng, con người ta ít hay nhiều, gián tiếp hay trực tiếp, đều đã bộc lộ một triết lý về hành động. Và không vì triết lý đó còn mang đậm tư duy dân gian, còn ở dạng tự phát (và chắc chắn là không thành hệ thống), mà chúng ta không thử gọi rõ nó ra như thế. Liên hệ việc người nông dân bán cả thứ rau quả có thể gây ngộ độc với vô vàn việc gọi là tiêu cực trước mắt (học sinh quay cóp bài; người qua đường liều lĩnh vượt xe ở những quãng đang có đèn đỏ; kẻ buôn lậu tàng trữ thứ thuốc tiêm chích vốn một lãi trăm lãi ngàn; các nhân viên nhà nước lợi dụng chức quyền để tham nhũng v.v..), tôi tưởng có thể nói nhiều người đang gặp nhau ở ý nghĩ: thời buổi này, chẳng còn gì để phân biệt là lợi với hại, là việc bị pháp luật nghiêm cấm với việc được phép; cũng chẳng nên nói rằng việc này hợp, còn việc kia trái đạo lý. Trong việc mưu cầu lợi ích cá nhân – ở một số người, nó được xem như sự định hướng duy nhất, như động cơ chi phối mọi hành động – con người ta chỉ còn một “triết lý” đơn giản: “Chỉ có những việc chưa làm được, chứ không có việc không được làm”. Một “triết lý” tùy tiện về nguyên tắc, có thể mở đường cho mọi tội lỗi, cố nhiên.

Triết lý tự phát

Theo cách hiểu thông thường, văn hóa chẳng qua chỉ là những gì thuộc về sinh hoạt tinh thần như báo, đài, phim ảnh, cùng các hoạt động vui chơi giải trí. Nhưng văn hóa theo nghĩa rộng thì bao trùm mọi lĩnh vực sinh hoạt. Nó liên quan đến cách sống cách tồn tại độc đáo của cả cộng đồng, nó là những ý tưởng toát ra từ cả những chuyện cụ thể như ăn mặc, sinh hoạt, hội hè… cho đến những chuyện trừu tượng như quan niệm về nhân sinh và vũ trụ; cách hiểu về mối quan hệ giữa thế giới đang sống và thế giới bên kia, về thời gian, về lịch sử v.v… Theo nghĩa ấy mà xét, một triết lý sống ở dạng tự phát, đại loại “chỉ có những việc chưa làm được, chứ không có những việc không được làm” cho thấy một cách hiểu về quyền hành động của mỗi con người, và mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, do đó, nó cũng thuộc về những tầng văn hóa được hình thành và di truyền một cách vô thức (ở đây là văn hóa chung sống). Bền vững và ổn định trong thời gian, nó nằm sâu trong tâm linh để chi phối mọi hành động của cá nhân. Nói cách khác, những biểu hiện tản mạn rời rạc hàng ngày sẽ không thể biến đổi tận gốc chừng nào người ta chưa nhận chân ra những căn nguyên văn hóa đứng đằng sau và có đối sách thích hợp.

Liệu có rơi vào suy diễn quá xa, khi thử nêu nhận xét như trên? Tôi hiểu, khi phân tích những rắc rối trong làm ăn buôn bán hay thực thi pháp luật trên phạm vi toàn xã hội, người ta thường không dành cho các nhân tố lịch sử – văn hóa một vai trò nào đó. Khi bàn về công cuộc phát triển nhiều người tin chắc như đinh đóng cột rằng “So với nước người, ta có thể còn non kém về kinh tế chứ nhất định không có chuyện người dân ta chưa trưởng thành về văn hóa”, lại càng không ai muốn tin rằng trong những năm gần đây, cái nền móng văn hóa ở mỗi người bình thường lại bị xói mòn đến mức đáng lo ngại. Tóm lại văn hóa không được nhìn nhận như một cái gì đứng sau tất cả, lại càng không mấy ai quan niệm rằng ở đó có thể tích tụ cả những độc tố, thường xuyên gây tác hại. Trong khi ấy, những diễn biến của đời sống trước mắt có lẽ đang yêu cầu một cách nghĩ khác. Nói một chuyện cấp bách: Nếu không tìm cho ra những căn nguyên văn hóa đứng sau những hiện tượng tiêu cực đang là những ung nhọt nhức nhối trên cơ thể cả xã hội, thì cuộc đấu tranh ở đây sẽ chẳng khác là bao so với chuyện chặt đầu tên giặc Phạm Nhan ngày xưa: cứ đầu này bị chặt, đầu khác lại mọc.

NGHÈO KHÓ NGHĨA LÀ MUỐN LÀM GÌ THÌ LÀM?

Vốn đã là câu chuyện đầu miệng của nhiều người, chuyện dân ăn xin hành nghề ở các đô thị cũng đã có lúc được đưa lên mặt báo (Tuổi trẻ chủ nhật số ra 23.XI.97). Bài viết chốt lại ở cái ý: chúng ta phải cùng lo tìm cho được một biện pháp hợp lý. Thương người cũng phải có cách thương hợp lý, nếu không lòng tốt của chúng ta chỉ gây thêm tác hại.

Tôi rất tán thành kết luận nói trên của tác giả Nguyễn Thị Oanh và nhân đây muốn chúng ta cùng để mắt tới một chuyện tương tự mà dưới đây tôi sẽ nói. Cả hai hiện tượng nhếch nhác này có chung một gốc rễ. Nói cách khác, khi làm công việc của mình, hai loại người này có chung một động cơ, một cách nghĩ, và đấy là điều ta phải giải quyết cho sòng phẳng.

Đó là chuyện những người bán hàng theo lối bán lấy được.

Đến thăm một vùng đất mới, người ta không thể ngồi mãi trong khách sạn mà phải lang thang ra phố. Nhưng người nước ngoài đến với các đô thị ở ta gần đây kêu trời vì chuyện trên đường họ bị mấy thanh niên chạy theo ép mua bản đồ hoặc các thứ quà lưu niệm lặt vặt. Đại khái vừa thấy họ ló mặt ra là tiếp cận ngay lập tức. Gí sát thứ hàng đem bán tận mắt người ta. Mời một lần không được thì bám nhằng nhằng mời đi mời lại, khiến người ta phát ngán. Đến mức có người khách du lịch đã phải chăng ra sau lưng tấm biển có hàng chữ:

– Tôi không cần mua đồ kỷ niệm

– Tôi không cần thuê xe

Họ chỉ cần yên ổn để đi du lịch trên đất nước này.

Và sự mời chào mua hàng đối với họ đã là một sự làm phiền không thể tha thứ.

Hàng đem bán có thể là du khách cũng cần. Nhưng điều đáng sợ là cách bán nài nỉ, ràng buộc và lối đặt giá cao. “Đã là dân du lịch, ắt hẳn lắm tiền. Đồng rơi đồng vãi của họ cũng đủ nuôi mình sống một cuộc sống đàng hoàng. Vậy thì hãy rán sức ép cho họ phải mua. Khi mình đã nghèo hơn họ, thì có quyền làm gì cũng được, miễn sao lôi được tiền trong ví họ ra”. Trong cách nhìn, lối cư xử của đám người bán hàng thấy toát ra những ý tưởng như vậy, và bởi lẽ tin chắc như đinh đóng cột rằng đó là một thứ lẽ phải thông thường, nên họ càng thấy mình có quyền lấn tới làm theo ý muốn.

Đọc đến đây, có thể có bạn đọc thầm nghĩ chuyện mấy người bán hàng nói trên là chuyện vặt, làm gì có ý tưởng sâu xa nào chi phối họ trong khi hành động. Tôi cũng nhận là những người ấy có thể chẳng suy nghĩ gì nhiều. Song vẫn muốn tin rằng họ có cách lý sự của họ, và tôi chỉ thử gọi lên điều họ thầm tự nhủ. Một điều có thể chắc chắn là giữa đám bán hàng cho Tây theo kiểu “gí tận mặt” và những người ăn xin “chuyên nghiệp” nêu ra trong bài của Nguyễn Thị Oanh mặc dù cách hành nghề khác nhau, song vẫn có những ý tưởng chung chi phối. Điều cần nói thêm ở đây là một số người chúng ta tuy không thích các hành động ấy, song vẫn ngầm tán thành lý sự của họ, xem đó là một cách nghĩ hợp lý. Chẳng những thế, trong quan hệ với người nước ngoài, ở những công việc lớn lao và hệ trọng hơn – dịch vụ, buôn bán, tiếp xúc, đưa đón… – không ít thì nhiều, một số chúng ta cũng đang bị những ý tưởng tương tự chi phối. Đại khái cái lô-gic ở đây cũng khá giản dị: Tức là nhân danh sự nghèo khó để làm liều làm bậy. Cho rằng trước cái nghèo khó của mình, mọi người giàu có đều có lỗi. Và với người nghèo khó, chỉ có những việc chưa làm được, chứ không có những việc bị cấm, không bao giờ được phép làm. Một lối suy nghĩ như vậy, thoạt nghe cũng có vẻ có lý, hơn nữa, nó thúc đẩy chúng ta xoay xỏa tính toán, nó giải phóng ở ta nhiều “sáng kiến” và giúp ta bớt ngần ngại mà thêm kiên trì trong công việc. Nhưng xét về lâu về dài, nó chỉ hạ thấp chúng ta, và níu kéo không cho phép ta vươn lên làm ăn ngang tầm với người. Trong chừng mực nào đó, những người ăn xin còn tồn tại, cũng như đám bán hàng theo kiểu pressing còn hành nghề được, là vì ở ta, cái mầm mống triết lý của họ chưa bị rũ sạch.

Có một điều kể cũng thú vị, liên quan đến bài viết của tác giả Nguyễn Thị Oanh về dân ăn mày: trong khi lục lọi các tài liệu văn học sử hồi đầu thế kỷ, ngẫu nhiên tôi tìm được một bài hịch lâu nay ít ai để ý: Hịch đuổi kẻ ăn mày của Tản Đà. Bài hịch này mở đầu bằng một đoạn dẫn nói rằng nhiều người ăn xin chẳng qua lười biếng, không chịu làm lụng “Nhất như những đứa trẻ con đứng chực dưới xe điện và tụ họp ngoài cửa ô, thật có người nói chuyện với tôi rằng: nhiều người ở làng cạnh muốn nuôi chúng nó chăn trâu mà chúng nó không đi, cứ làm nghề xin xu, để dễ sự no ấm”. Và sau khi dẫn lại một câu trong sách Mạnh Tử: “Sự cho người có khi làm hại sự ân huệ”, tác giả nói thêm “sự không đáng thương xót mà thương xót, đó là vô học”. Tiếp đó, trong phần chính văn, tác giả viết:

Hôm hôm mai mai

Bị bị bát bát

Quỷ đưa đường, ma dắt lối

quen ngõ thời vào

Nay được thịt, mai được xôi

thấy mùi đánh mãi

Cửa ô, xe điện

Rêu rao quạ vỡ chiều hôm

Đám hội, nhà chay

quấn quýt gà què gặm cối

Làm xấu hổ cho cả nước

Khéo bêu nhuốc cho loài người

Bảo mãi mỏi mồm

Trông càng nhớp mắt

Nào là

Người nhà, con vú

Thằng ở quân hầu

Truyền là bay đóng chặt cửa vào

Thây cha chúng nó.

Người trong gia đình đến nay còn kể: Trong những lời Tản Đà dặn dò con cháu, có hai điều cấm, cấm không được làm quan và cấm đi ăn mày.

Khi biết rằng những điều hôm nay chúng ta bàn bạc, nhà thơ núi Tản sông Đà đã đả động tới từ hơn nửa thế kỷ trước, chúng ta càng tin không phải là mình nhẫn tâm mà đang suy nghĩ đúng.

Lâu nay bài hịch này của Tản Đà không được nhắc nhở tới có lẽ một phần là vì nó đi ngược lại mọi ảo tưởng về nhân đạo và từ thiện vốn nằm sâu trong tâm thức mọi người. Còn như nếu chúng ta muốn tìm tòi một cách suy nghĩ khác đi, nó có thể là một trong những trợ thủ. Nhất là khi thói quen nhân danh sự nghèo khó vẫn đang được bộc lộ trong vô số hành động khác nhau, kể cả những việc bề ngoài có vẻ chẳng dây dưa gì hết tới chuyện ăn mày.

TIẾP TỤC CÂU CHUYỆN VỀ CÁCH NGHĨ CŨ,
CÁCH NGHĨ MỚI

Tham lợi trước mắt, chuốc hại lâu dài

Một bài báo nhỏ in trên Nông thôn Ngày nay số 33 (ra 13-8-97) cho biết: ở Bạc Liêu và Cà Mau gần đây, một số người đã bơm rau câu hoặc tuồn đinh vào tôm trước khi mang bán. Bài báo viết thêm: từ khi lối làm ăn này bị phát hiện, giá tôm sụt gần 2USD/kg. Một số bạn hàng như Thái Lan, Nhật Bản đã dọa nếu tình trạng này không được khắc phục, sẽ không cho thủy sản Việt Nam nhập vào thị trường của họ.

Bài báo xui tôi nhớ lại hai chuyện tương tự:

Câu chuyện thứ nhất có liên quan đến những vùng đặc sản chung quanh Hà Nội. Đi xa về, chúng tôi thường dừng xe mua vài thứ mặt hàng nổi tiếng về làm quà. Đến Thanh Hóa mua nem. Đến Bần mua tương. Đến Quán Gánh mua bánh giầy. Thế nhưng một lần, tôi đã bị “vỡ mặt” vì chuyện đi công tác về, mang bánh giầy Quán Gánh đi biếu. Bánh bị thiu, mặc dù trước lúc mua, mấy chị ngồi trên xe đã cẩn thận nếm thử hàng mẫu. Thì ra hàng mẫu một đằng, hàng bán một nẻo. Bà xã tôi lạnh lùng hạ lệnh: Thôi bận sau cạch đến già đấy nhé!

Câu chuyện thứ hai là chuyện chó cảnh. Có một dạo ở Hà Nội phong trào này rất rầm rộ. Chó đắt lắm, có những con đẹp giá cả tính ra đến hàng cây vàng. Thế là có người nhanh nhảu làm hàng giả, mà tiếng trong nghề gọi là chó đểu. Họ đem chó ta phối với chó Nhật chính hiệu. Kết quả hàng không xuất được nữa, cái nghề hái ra tiền ấy cũng sập tiệm luôn.

Ở đây, không phải chỉ có chuyện con sâu làm rầu nồi canh, mà theo tôi có điều quan trọng hơn, đó là lối nghĩ của người sản xuất nhỏ. Chỉ cốt cái lợi trước mắt. Lừa được một lần là sung sướng lắm. Còn do sự lừa dối của mình, cả một vùng nghề mất tín nhiệm, cả loạt người thất cơ lỡ vận, thì không cần biết. Ai mà tính được từ xưa tới nay, những sự vô tình tương tự đã giết chết bao người làm nghề chân chính trên quê hương nghèo khó của chúng ta?!

Sự cần cù vô nghĩa

Cùng một sự việc xảy ra trước mắt mà mỗi thời điểm, nó lại có thể gợi ra trong ta những ý nghĩa riêng. Tôi xin lấy một ví dụ:

Hàng năm, trên đường từ Hà Nội về thăm quê, thường tôi vẫn gặp cái cảnh: quanh một cái ao, cái đầm, hoặc một lạch nước, một người, đôi khi là một em bé, đôi khi là một bà già, thả xuống dăm cọng vó, ném thêm vào đó mấy hột thính. Một lúc sau, ra cất lên được vài con tôm bé xíu.

Cách đây vài ba chục năm, lúc còn là một học sinh phổ thông, tôi thường nghĩ về cái cảnh đó với tình cảm tốt đẹp. Nhớ lại những bài giảng của các thầy các cô ở trường, tôi sung sướng tự nhủ: đúng là nhân dân ta thật cần cù và chăm chỉ!

Thời gian qua đi. Những cái đầm cái ao bên đường cạn dần, mặt nước thu hẹp hẳn lại, song người đặt vó vẫn tiếp tục công việc. Và giờ đây, chứng kiến cái cảnh đã quá quen thuộc ấy, tôi lại thường bị dằn vặt bởi những câu hỏi:

– Bắt tôm bắt tép từ khi “mới rời vú mẹ” như thế, thì còn đâu ra tôm lớn?

– Chẳng lẽ bà con mình không biết làm gì khác, mà cứ loanh quanh theo con đường mòn thế này?

– Đáng lẽ phải làm giàu cho thiên nhiên, rồi bắt nó “phục vụ” sau, sao ta lại cứ đẽo mãi vào nó như vậy?

Sự kiếm sống bao giờ cũng có ý nghĩa thiêng liêng. Khi còn có người giữa trưa hè dò dẫm đặt dăm gọng vó, nghĩa là cuộc sống nó đòi hỏi vậy, tôi nỡ lòng nào dám mở miệng khuyên can. Nhưng tôi cứ tha thiết cầu mong một ngày nào đó, sự cần cù nhẫn nại của bà con mình sẽ mang lại hiệu quả tốt đẹp hơn. Nghĩa là chúng ta có cách làm ăn khác, cách quan hệ với môi trường thiên nhiên cũng đổi khác. Khi ấy tôi tin tấm cảm tình mến yêu khâm phục tôi học ở trường ngày xưa sẽ trở lại trong tôi và những người như tôi, mà là trở lại trọn vẹn và đàng hoàng nữa!

Không cho ai được sống khác

Có một nhận xét, tôi được nghe từ cuối 1975, nhân cái lần về công tác ở một xã nọ Thái Bình, và đến nay còn nhớ. Đó là lời đúc kết của một người nông dân khôn ngoan:

– Các anh không biết chứ ở nhà quê này, giả dụ chưa ai trồng khoai tây mà mình trồng thì chả được yên. Trẻ nó phá. Mà người lớn cũng phá, không ai muốn cho mình làm khác đi. Còn đến khi cả làng cả huyện cũng biết trồng khoai tây, mình cũng làm như mọi nhà, thì lại khổ nỗi khác. Phải nói là khoai sẽ rẻ thối ra, được một mùa háo hức, mùa sau rồi ai cũng sinh ra dửng dưng, chả còn bụng dạ đâu trông nom ruộng khoai nữa.

Sự việc nêu lên chưa chắc đã phổ biến rộng, tôi biết. Song cam đoan rằng nó chỉ là chuyện cá biệt một vài nơi thì tôi không dám. Có thể thấy nó là di lụy của một thời khi con người cứ vón cục lại với nhau trong làm ăn sinh sống, lâu dần thành một thói quen, một lối nghĩ hẹp hòi “chết cả đống hơn sống một người”. Trong khi đó, nghĩ kỹ thì thấy ngược lại: Cuộc sống cộng đồng đích thực bao hàm trong nó một sự bao dung. Bên cạnh những quy định ai ai cũng bắt buộc phải tuân thủ, lại nên có sự rộng lượng để mỗi người, mỗi gia đình tìm thấy cách sống, cách làm việc riêng. Bởi suy cho cùng, những tìm tòi đơn độc kia, một khi thành công, lại sẽ mở ra cho cộng đồng một khả năng phát triển rộng lớn.

Sự chấp nhận muộn màng

Một bài báo nhỏ in trên tờ Tin tức buổi chiều số tháng 8-1998 cho biết: ở một lâm trường Cà Mau, do dân đói, không làm sao giữ được rừng tràm. Bình quân mỗi đêm mất khoảng 3.000 cây tràm trị giá đâu tới 15 triệu, và mỗi tháng như vậy là mất đi gần nửa tỷ đồng.

Kể ra, giữa bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra hàng ngày thì những tin tức nói trên không phải cái gì thật lạ, chẳng qua nó chỉ là minh họa cho mấy câu tục ngữ vẫn lưu truyền, đại loại “Có thực mới vực được đạo” hoặc “Chớ cho người đói thổi cơm, người no thổi lửa, người hờn rửa rau”.

Tuy nhiên, điều gây cho tôi ngạc nhiên là cái đầu đề của bài viết: Khi dân đói đừng nói chuyện giữ rừng.

Theo thói quen của người làm công việc liên quan đến báo chí tuyên truyền, tôi thoáng cảm thấy ở đây có chút gì khang khác.

Xưa nay chúng tôi chỉ quen viết là dân đang quyết tâm thế này, dầu có khó khăn cũng quyết làm bằng được việc kia việc nọ.

Nay đã đến lúc mọi người bảo nhau rằng nhiều việc to lớn chỉ được hoàn thành với những điều kiện cụ thể và nếu thiếu đi những điều kiện ấy, thì có muốn mấy cũng không làm nổi.

Nhân đây, nhìn rộng ra, thấy nhiều dự định kế hoạch cũng bắt đầu được nhận thức lại. Người ta hay dùng tới chữ tính khả thi của nó. Ai sẽ làm? Điều kiện để làm là gì? Lấy đâu ra tiền ra vốn? Khi đã có vốn rồi, sử dụng ra sao? Ai kiểm tra mọi khâu công việc cụ thể? Tóm lại, một câu hỏi thường xuyên được đặt ra: ý đồ thì tốt đẹp đấy, nhưng liệu có biến thành hiện thực?

Khi tự hỏi thế, tức là chúng ta đã biết rằng giữa mong muốn và năng lực của chúng ta bao giờ cũng có một khoảng cách. Không phải cứ muốn là được. Cân nhắc không phải là bàn lùi. Mà tính toán cho chi li, tỉ mỉ (kể cả những tính toán trên phương diện tâm lý) là thực tế hơn, trong cách nghĩ. Là chấp nhận con người với những yêu cầu cụ thể của họ trong việc thực hiện mọi nhiệm vụ xã hội.

VĂN HÓA QUÀ VẶT

Mười lăm năm trước, một người bạn tôi sau thời gian đèn sách công phu từ nước ngoài trở về hăm hở bắt tay vào xây dựng sự nghiệp như trước đây hằng ao ước. Anh dịch. Và dịch toàn những tác phẩm cổ điển của thế giới: Goethe, Schiller, Brecht v.v…

Bẵng đi một dạo, không thấy anh mang đến những cuốn sách dịch “nặng đồng cân” ấy nữa.

Bảo rằng thay đổi nghề thì hơi quá, nhưng độ hơn một năm gần đây, thì cách kiếm sống của anh hoàn toàn khác hẳn. Đến nhà anh chơi, thấy la liệt quanh bàn hàng chồng báo. Báo Anh, Pháp, Mỹ, Đức, đã đành rồi. Lại cả báo Thái Lan, báo Ấn Độ nữa. Công việc của anh là lọc ra những tờ báo có các mẩu tin vui, lạ, giật gân, có kèm theo ảnh càng tốt. Rồi anh phỏng dịch và cắt dán gửi cho các báo. Báo này không dùng lại gửi báo khác. Thu nhập đều đều so với việc dịch cổ điển hồi nào, còn nhỉnh hơn nữa.

Ở các nước khác, mới học dịch thì chỉ được dịch các mẩu tin và phải từng trải trong nghề lắm rồi, người ta mới được phép dịch tác phẩm cổ điển của các nhà văn hóa lớn trên thế giới.

Hành trình văn hóa của anh bạn tôi diễn ra theo chiều ngược lại. Tuy nhiên, điều đáng nói là hành trình ấy của anh không phải do ý anh muốn mà là do diễn biến của đời sống văn hóa trong nước qui định.

Từ một đời sống văn hóa được quan niệm một cách cổ điển – non kém yếu ớt, và nhiều khi giả tạo nữa, nhưng vẫn là theo kiểu cổ điển – giờ đây chúng ta đang có một đời sống văn hóa nhộn nhịp, màu sắc sặc sỡ, biến đổi luôn luôn để cuối cùng thành một món “tạp pí lù” hỗn độn. Sách nghiêm chỉnh bị sách nhí nhố đánh bại. Và giữa sách với báo, tạp chí, thì cái sau được ưa chuộng hơn cái trước, trừ một vài tiểu thuyết Tàu hoặc các tiểu thuyết thông tục kiểu Angiêlích… còn nói chung người ta ngại đọc sách dày. Thà để tiền mua báo, ở đó, cái gì cũng có một tí, một tí thời sự vùng Vịnh, một tí chống tham nhũng, rồi một tí lượm lặt gần xa, soi ống kính vào từ cuộc sống riêng của diễn viên này đến thói xấu kỳ cục của chính khách kia; tất cả được xào xáo đến điếc cả mũi, song thực chất là một thứ quà vặt, nhẹ nhàng dễ tiêu và chả gây ra tác hại cũng như đã không mang lại lợi ích gì.

Bên cạnh phần văn hóa nước ngoài thì phần văn hóa trong nước gần đây cũng được báo chí săn sóc chu đáo. Phần lớn đó là giai thoại, là chuyện đồn thổi, một thứ mách lẻo, nói cho vui, nghe cho vui.

Cách đây một năm, nhân kỷ niệm 100 năm sinh Tản Đà, một nhà xuất bản lớn ở Hà Nội đã tung ra một cuốn sách viết về ông. Nhưng không phải là một chuyên khảo đi vào phân tích khuynh hướng sáng tác hoặc một số tác phẩm chính của tác giả (Loại sách ấy bây giờ gần như tuyệt chủng). Trước mắt tôi giờ đây là một tập sách mỏng, ngoài bìa đề rõ giai thoại Tản Đà, tóm lại là một số mẩu chuyện về ông, mẩu nào cũng ngồ ngộ, hay hay (cố nhiên, nếu ngẫm nghĩ kỹ thì cũng thấy có ý nghĩa!).

Thậm chí, hãy nhìn vào cả một số tiểu thuyết cũng thấy không gì khác, cũng là thứ quà vặt giúp người đọc giết thì giờ, ngoài ra cam đoan không bắt người đọc phải nghĩ ngợi. Người viết tặc lưỡi: “Cốt sao có tiền”. Nhà xuất bản có lý lẽ hẳn hoi “sách phải có người đọc chứ? Thời buổi dịch vụ cơ mà”. Quà vặt đã chiến thắng! Phong cách quà vặt đã hoàn toàn thắng.

Cái gì tồn tại đều có lý của nó. Phải ngớ ngẩn lắm, mới tính chuyện cấm hẳn quà vặt. Chỉ hiềm đã gọi là quà, đều không được lấn át bữa chính. Một người chủ gia đình bình thường khi xem sổ tiêu pha, nếu thấy tiền quà trội hơn khoản tiền ăn mấy bữa chính, hẳn không khỏi giật mình, và phải tìm cách hãm ngay tình trạng lộn tùng phèo ấy lại.

Chỉ có một điều đời sống văn hóa một nước không giống hẳn tình hình tiêu pha trong gia đình. Nó có vẻ của tất cả mọi người mà lại không phải của riêng ai. Bởi vậy, cái xu hướng quà vặt kia mới có cơ ngạo nghễ lấn tới.

Không biết có phải là quá không khi dự đoán rằng người ta có thể chết đói về văn hóa ngay khi no ứ thứ quà vặt đó?

LỘN XỘN TIẾNG VIỆT THỜI GIAO LƯU VĂN HÓA

Khi còn chưa biết chính mình là gì

Với một niềm tin dai dẳng, các phương tiện thông tin đại chúng ở ta thường không mệt mỏi trong việc nhắc nhở mọi người là phải giữ gìn bản sắc dân tộc, hoặc trong ngôn ngữ thì nhắc nhau là phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vậy mà mọi chuyện cứ diễn ra theo hướng ngược lại, tại sao lạ vậy? Hiện tượng nói ở đây chỉ có thể giải thích: chính là khi bước vào giao lưu tiếp xúc với thế giới, chúng ta không có sự chuẩn bị cần thiết. Muốn nói và viết đúng thì khi còn đang cắp sách đi học, người ta phải được dạy kỹ về tiếng mẹ đẻ. Song, đến nay, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam còn đang mò mẫm và chưa có bộ ngữ pháp nào được mọi người nhất trí là phản ánh đúng những quy luật nội tại của tiếng Việt. Luôn luôn nhắc nhở nhau phải giữ gìn bản sắc song bản sắc là thế nào thì lại chưa biết – cái đặc điểm chi phối quá trình giao lưu văn hóa nói chung cũng đang hiển hiện cả trong ngôn ngữ. Ngoài ra, sự cẩu thả, lối làm lấy được, làm cho xong chuyện, bất chấp quy cách chuẩn mực, một khi đã lan tràn trong cách sống chung, thì trước sau nó sẽ chi phối cách nói và viết, làm sao khác được? Không phải giao lưu văn hóa là nguồn gốc của những lộn xộn trong ngôn ngữ hôm nay. Nó chỉ là điều kiện để những căn bệnh vốn có ở chúng ta có dịp bộc lộ.

Sau khi phác họa cái nguyên nhân gây ra những sự lộn xộn trong ngôn ngữ hiện thời, dưới đây tôi thử nêu vài hiện tượng nổi cộm nhất.

Nói ngọng

Khoảng những năm 50 của thế kỷ XX về trước, trong các gia đình Hà Nội, người ta đã có nỗi lo là lo con cái nói ngọng. Đáng nói làm gì thì đọc nàm gì, đáng giới thiệu với người khác tôi ở bên Hàng Lọng thì bảo tôi ở bên Hàng Nọng. Cái ngọng bấy giờ thật rõ quê mùa, mộc mạc.

Ngày nay, lối ngọng ấy hầu như đã được thanh toán, nhưng lại nảy nòi một lối ngọng mới: ngọng ngược. Sáng sáng, cái xe đạp bánh mỳ rong đánh thức cả khu tập thể bằng tiếng rao lanh lảnh “Bánh mỳ lóng đây!”. Trưa trưa, mấy cô quang gánh qua nhà thiết tha mời mọc “Có ai ăn rượu lếp?”. Bạn bè rủ nhau: “Ra làm chén lước đã”. Đồng hương lâu này gặp nhau kể chuyện “Dạo lày thằng ấy trúng quả lắm!”.

Nhưng đây chưa phải là chỗ duy nhất phân biệt cái ngọng thời nay với cái ngọng thời xưa. Ít ra, còn phải lưu ý mấy “nét đặc thù” nữa.

Một là, trong số người bây giờ, có cả những người tạm gọi là rất có văn hóa. Cả một số học sinh cấp ba, một số sinh viên cũng nói ngọng. Người đang đi học, không được chữa chạy kịp thời, cố nhiên là nguồn bổ sung vô tận cho người đã ra trường ngọng một cách công khai thoải mái.

Hai là, không gian để người ta nói ngọng đang được mở rộng, cách nói ngọng đang xâm nhập cả vào những khu vực xưa kia nó bị cấm cửa. Người ta nói ngọng ở nơi công cộng, nhà ga, bến tàu, lúc về bên mâm cơm với gia đình đã đành, có người lại còn nói ngọng cả khi có việc lên đài, lên tivi nói cho cả triệu người nghe. Nhiều người Việt Nam ra nước ngoài vẫn nói ngọng trước sự ngạc nhiên của người nước ngoài học tiếng Việt, họ (những người nước ngoài ấy) tưởng đấy là một thứ tiếng Việt mà họ chưa biết!

Nỗi lo này có phần giống với nỗi lo của một người làm nghề nghiên cứu ngôn ngữ. Sau khi nhận ra rằng hình như bây giờ ai muốn nói ngọng thì tùy, không ai thấy ngượng vì nói ngọng và nghe người khác nói ngọng nữa, trong đầu óc anh chợt nảy ra một dự báo khoa học:

– Tôi chỉ sợ khi nhiều người nói ngọng quá thì lâu dần, lại hóa ra họ nói đúng, mà mình lại bị coi là nói ngọng không biết chừng. Bấy giờ khi mình nói mình đang làm việc ở Hà Nội, người ta sẽ bảo là ngọng rồi. Hà Lội mới đúng” – và câu đầu tiên của Truyện Kiều phải sửa thành:

“Trăm lăm trong cõi người ta”.

Hỗn hào, hổ lốn

Vừa đọc một cuốn tiểu thuyết ra đời cách đây vài năm mang tên Cơ hội của chúa, nhiều bạn đọc nhận ngay ra một đặc điểm: ngôn ngữ các nhân vật trẻ trong truyện phải nói là khá tạp, nhất là có pha thêm nhiều từ nước ngoài, mà đôi khi lại nói sai, và tác giả viết vào sách cũng sai luôn; cố nhiên là nhiều người tỏ ý than phiền và cho là ngôn ngữ một cuốn tiểu thuyết không thể hổ lốn như vậy.

Điều đáng nói ở đây: cuốn sách nói trên là một trong số nhỏ những tác phẩm mang được không khí làm ăn sinh sống ngày hôm nay vào văn chương. Tạm rời trang sách nhìn rộng ra các loại sách báo, và lắng nghe lời lẽ mà hàng ngày chúng ta vẫn nói với nhau thì thấy ngôn ngữ xã hội cũng na ná như ngôn ngữ trong sách, tức là tùy tiện, lộn xộn, đại khái là so với tình trạng nhà cửa xây dựng chẳng theo một quy hoạch nào, hoặc các loại xe cộ đi lại chen chúc trên đường, thì cũng chẳng có gì khác! Việc mở rộng giao lưu kinh tế xã hội trước sau ảnh hưởng tới văn hóa, mà trong văn hóa thì ngôn ngữ vốn là bộ phận năng động, nhạy cảm, xốp, dễ in dấu mọi thay đổi, vậy một ít sự hỗn hào vô trật tự là không tránh khỏi, có điều giờ đây nó đã kéo quá mức có thể chấp nhận.

…và lai căng, pha tạp

Nổi cộm nhất phải kể hiện tượng pha phách tiếng Anh vào các thông tin cập nhật. Đọc báo mãi rồi cũng hiểu là những từ mới như show diễn như world cup có nghĩa gì, nhưng nhiều người chỉ tự hỏi, chẳng lẽ từ nay trở đi cứ phải chấp nhận chúng mãi coi chúng như tiếng Việt? Vả chăng tình hình có phải đã yên đâu, được đằng chân lân đằng đầu, chẳng hạn mới đây lại thấy có một chương trình ca nhạc mang tên Phương Thanh Live Show. Sau khi phải hỏi cậu con trai hàng xóm xem mấy chữ đó có nghĩa là gì, tôi chỉ còn có cách tìm ra một đối tượng nào đó để trút nỗi bực mình: tại nhà trường không cho bọn tôi học tiếng Anh? Hay là tại ban tổ chức người ta không có lời dặn trước là ai không biết tiếng Anh thì đừng nên ngó ngàng tới băng quảng cáo âm nhạc thuộc loại thời thượng?

Một người bạn tôi biện hộ cho cái sự xâm nhập ồ ạt của tiếng nước ngoài vào tiếng Việt:

– Anh thử nghĩ xem: hàng ngày chúng mình đi xe Honda, Suzuki đi làm; ở nhà hay cơ quan thì xài tủ lạnh Sanyo hay Daewoo và dùng TV của Sony JVC. Chẳng những các xí nghiệp Việt Nam sản xuất bằng máy móc nhập từ nước ngoài, mà cho đến một lọ hồ hoặc cái kẹp tài liệu nhiều cơ quan đang dùng hiện nay đều là của Đài Loan, hay Nhật Bản. Dân mê bóng đá bọn mình gặp nhau là bàn tán về M.U với lại AC, còn vợ con mình mê chuyện Càn Long, chuyện Hòa Thân… Trong hoàn cảnh ấy thử hỏi làm sao ngôn ngữ chúng ta sử dụng không cộm lên những từ bê nguyên xi từ nước ngoài cũng như những cách nói vốn có từ bên Tây bên Tàu cứ nhập lậu vào ngữ pháp ta lúc nào không biết?

Tôi công nhận anh bạn có lý, song vẫn cảm thấy ở đây có gì kỳ cục. Chẳng lẽ cùng với quá trình toàn cầu hóa, rồi ra ngôn ngữ các dân tộc sẽ pha trộn lung tung để trở nên những món cháo vữa? Không, không thể như vậy được!

Học làm sang

Từ đầu thế kỷ XX, khi bắt đầu phải tiếp xúc rộng rãi với văn minh phương Tây, nhiều thuật ngữ chính trị xã hội, nhiều danh từ trừu tượng vốn có từ tiếng Hán đã được du nhập vào tiếng Việt, quá trình này còn tiếp tục trong những năm cách mạng kháng chiến và kéo dài cho tới ngày nay. Lấy một ví dụ chỉ gần đây trong nhiều bộ phim hai chữ nô tài mới được dùng thường xuyên. Lại như trường hợp lâm tặc tin tặc, cách tạo từ này cũng gần đây mới xuất hiện. Thôi thì trong lúc chưa có phương án tạo từ mới trong tiếng Việt, chúng ta đành tạm bằng lòng với sự vay mượn nói trên. Song tình hình đáng báo động là ở chỗ không những từ vựng Hán mà cả cách kết cấu câu của chữ Hán đang lan tràn, ra phố thì thấy nào là cây dừa quán, cầy tơ quán, lẩu dê nhất ly, giở sách báo ra thì bắt gặp đương kim dẫn đầu giải, nữ nhà văn, Khổng tử truyện, Cỏ may thi tập v.v… Không ai tuyên bố rõ rệt, nhưng có thể đoán nhiều người cho rằng như thế là một cách làm sang, và gây được sự chú ý.

Việc sử dụng những kết cấu ngữ pháp của tiếng Hán như trên phải nói là đáng trách, nó xâm phạm vào những quy định phân biệt tiếng Việt với tiếng Hán tức là động chạm tới chỗ sống còn của ngôn ngữ dân tộc. Thế nhưng với một số người thì đây lại là một lỗi lầm không đáng kể vì nó không gây sốc và trong giao thiệp hàng ngày người nghe vẫn hiểu được ý người nói, thế là họ cứ tiếp tục!

Cố ý vọng ngoại

Các tài liệu lịch sử còn ghi rõ: Khoảng giữa thế kỷ XIX, trước sự bành trướng của thực dân Pháp, triều đình Tự Đức cũng đã tính chuyện cho dịch một vài cuốn sách kỹ thuật phương Tây nhưng vì không có người có trình độ dịch nên đành cho lưu trữ ở Viện Cơ mật. Còn ngày nay nhiều khi thấy trên mặt báo tên phim tên sách viết bằng tiếng Anh, tôi có đi hỏi, thì được nghe một số dịch giả thú nhận là không biết dịch thế nào cho ổn. Hóa ra xưa với ngày nay cách xa hơn một thế kỷ vẫn chung một bệnh!

Trong điều kiện kinh tế thị trường, báo chí cạnh tranh cao độ, không ai bình tâm ngồi nghĩ cách dịch cho xuôi một cái tên phim, thôi thì cứ chép đại ra, bạn đọc muốn hiểu thế nào thì hiểu (!)

Nhưng mọi chuyện không dừng lại ở chỗ ấy. Theo sự quan sát của tôi, trong nhiều trường hợp, người ta có thể bắt gặp cả cái ý nghĩ sâu xa ẩn trong tâm lý của một số người khi viết nguyên văn tiếng nước ngoài lên mặt báo. Họ tự hào là được hưởng thụ những thành quả mới của nghệ thuật thế giới, và hình như phải nói và viết tên bài hát hay cuốn phim bằng chính tên gốc tiếng Anh hoặc giữ nguyên tên sách rồi đọc to lên bằng âm Hán Việt thì họ mới sướng.

Tức là, đứng ở góc độ cá nhân mà xét, họ vọng ngoại một cách sâu sắc, vọng ngoại tận trong tiềm thức. Hoặc, đơn giản hơn, họ không có ý thức đầy đủ về hành động nói và viết của mình. Họ không yêu tiếng Việt như họ vẫn tưởng.

NỖI SỢ CẦN THIẾT

Nỗi sợ này không làm cho con người ta trở nên hèn kém mà chỉ mở đường cho những tìm tòi khám phá thú vị: đó là nỗi sợ về sự phong phú và những biến thái kỳ lạ của tiếng Việt.

Vậy thì phải biết sợ mới nên người!

Đáng tiếc là nhiều người cứ nhơn nhơn ra thây kệ.

Cụ bà và bà cụ

Ở tuổi 90, giáo sư T.vẫn tiếp tục cho in ra một công trình nghiên cứu có giá trị. Người đọc lại càng cảm động hơn khi biết là cuốn sách được hoàn thành trong khi hàng ngày, như lời một ký giả năm ngoái đây kể trên tờ báo nọ, giáo sư vừa viết vừa lo “chăm sóc bà cụ đang mệt nặng”. Đọc đến chỗ này, tôi cũng như mọi người đều hiểu bà cụ nói ở đây là người bạn đời của giáo sư chắc tuổi cũng đã cao lắm. Song có một điều khiến tôi cứ phải băn khoăn: viết là bà cụ đã chính xác chưa? Trong tiếng Việt, hai chữ bà cụ thường dùng để chỉ thân mẫu của một người nào đó. “Phải, bà cụ sinh ra ông chủ mới tạ thế hồi đêm” (Nguyễn Công Hoan, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ). Còn để chỉ bạn đời của một người đã cao tuổi, người ta đem đảo ngược hai chữ trên, chẳng hạn đây là một lời thường dùng để ca tụng những gia đình mẫu mực: Cụ ông thì nho nhã phong lưu còn cụ bà thật là một người hiền hậu!

Giá khi biên tập đoạn văn trên, tòa báo giúp người viết đảo lại thành giáo sư vừa viết sách vừa “chăm sóc cụ bà đang mệt nặng”, có lẽ phải hơn.

Đây chỉ là một trong muôn ngàn ví dụ, chứng tỏ cái khó của tiếng Việt. Ác một nỗi là hiện nay những chỗ khó này không được chúng ta mang ra bàn bạc. Ví dụ ở nhiều nước trên thế giới, người ta thường có hẳn một cuốn từ điển dành để nói về những từ dễ bị dùng nhầm. Còn ở ta ai nấy mò mẫm hiểu lấy một mình.

Nữ nhà viết kịch

Trong một hội nghị về ngôn ngữ, một nhà nghiên cứu thuộc loại thâm niên có nêu một nhận xét khá thú vị. Đại ý ông bảo nay là thời một số người vốn không thạo tiếng Hán Việt lại thích trổ tài dùng từ lạ. Trong khi tiếng Hán có rất nhiều từ đồng âm và từng từ thường có nhiều nghĩa thì những người này – chữ vuông chỉ biết đến chữ nhất là cùng, khi đọc sách cũ thường lỗ mỗ hiểu một hai nghĩa cụ thể của những âm Hán Việt – lại rất thích ghép những từ tố đó lại thành những từ mới. Họ nghiêm chỉnh nghĩ rằng phải những từ mới đó mới diễn tả đúng ý của họ. Có biết đâu khách quan mà xét lại thấy như là họ đang trộ thiên hạ.

Câu chuyện sử dụng từ gốc Hán ra sao đáng được bàn riêng trong một mục khác, ở đây tôi chỉ muốn lưu ý một trường hợp riêng là việc kết hợp những từ gốc Hán với từ thuần Việt. Cách cấu tạo tiếng Hán (đặt từ phụ ở trước, từ chính ở sau) thường cho phép tạo nên những từ mới gọn, chặt, và có màu sắc trang trọng. Trong khi đó hiện chúng ta đang có khó khăn trong việc tạo thêm từ mới, nhất là loại từ dùng để định danh. Ví dụ khi cần nói tới một người phụ nữ làm thơ, nhiều người thấy lúng túng. Gọi là nữ thi sĩ, đúng quá rồi, song hiện đã có từ nhà thơ quá phổ biến, dùng lại thi sĩ e bất tiện. Dùng nhà thơ gái không được đã đành, đến như nhà thơ nữ cũng vẫn có vẻ còn nôm na quá. Có lẽ vì thế mà cụm từ nữ nhà thơ ra đời. Tương tự như vậy là sự xuất hiện những là nữ nhà viết kịch với lại cố nhà văn hoặc trong thể thao là đương kim giữ cúp, đương kim dẫn đầu giải… Không biết về sau có quen đi được không chứ giờ đây tôi cứ cảm thấy những cách nói này nghe thế nào ấy, không thuận tai, mặc dù giá có người vặn lại là nên dùng thế nào thì cũng chịu không dám đề xuất. Khi cần viết về một vài người bạn như Xuân Quỳnh, Thanh Nhàn, Ý Nhi… hoặc tôi bỏ bớt chữ nữ đi, chỉ gọi nhà thơ, hoặc vẫn dùng cả cụm từ dài, người phụ nữ làm thơ, ai có chê cũng xin chịu.

Lão nhà văn

Nếu tôi không nhầm thì cụm từ này ngày càng được dùng nhiều hơn, năm ngoái có người để gọi nhà văn ở tuổi “cổ lai hi” Nguyễn Quang Sáng, mới đây lại thấy nó xuất hiện trước cái tên nhà văn Sơn Nam người đã sống qua ba phần tư thế kỷ. Ngoài chuyện ghép từ bất chấp quy luật ngữ pháp tiếng Việt, giống như nữ nhà viết kịch vừa nói, xin lưu ý thêm một điểm nhỏ: Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, ở mục chữ lão đã có ghi rõ lão không những là danh từ để chỉ người già như ông lão bà lão, sống lâu lên lão làng, mà còn có thể đặt trước danh từ chỉ người và nghề nghiệp nhưng đấy là khi có hàm ý coi thường như lão thầy bói, lão phù thủy, lão nhà giàu độc ác… Bởi vậy khi nghe những cách gọi lão nhà văn A., lão nhà văn B., tôi cứ thấy ngài ngại, e rằng một vài bạn đọc nhạy cảm sẽ bảo đó là cách gọi xách mé.

Sợ hãi, thận trọng, kính cẩn

Sắp bước sang tuổi thượng thọ, song nhà thơ C. vẫn đang tràn đầy khao khát sáng tạo, nhất là thích tìm vào những từ lạ và đặt ra những cách ghép từ ngữ chưa thấy ở ai bao giờ. Trong khi nhiều người hào hứng theo dõi thì cũng có những người không tán thành. Họ bảo: về già đâu còn mấy thì giờ, vậy các cụ nên lo viết cho giản dị, đi thẳng tới những điều định nói, còn tìm tòi dành cho lớp trẻ. Cũng phải nói thêm là những tìm tòi về chữ ở nhà thơ C. nhiều khi hiện ra trên trang giấy như là một sự cố ý dồn ép ngôn ngữ, bởi vậy nghe đâu một người rất thạo về chữ là nhà văn Tô Hoài có lúc đã hóm hỉnh nói đùa:

– Ơ cái anh C. này không biết sợ chữ nhỉ!

Tôi không xem nhận xét này là một sự đánh giá hơn kém đối với nhà thơ C., mà chỉ muốn đọc ra đằng sau câu nói tưởng như bâng quơ ấy một thái độ tôn sùng ngôn ngữ kỳ lạ. Có cảm tưởng đối với những bậc thầy ngôn ngữ cỡ như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Tô Hoài…, tiếng Việt tuy là một công cụ sử dụng hàng ngày song lại là một thực tế siêu phàm một đấng bậc cao cả, đấng bậc ấy đặc biệt đáo để tinh quái, ai có ý xem thường hoặc làm trò đùa cợt mà lại không cao tay ấn là mất mạng như bỡn.

Nói cho vui thôi, chữ nghĩa có vật chết được ai! Không kể những người viết bừa viết ẩu, ngay nhiều người lao động lương thiện lắm lúc trong cơn vội vã hoặc một thoáng nhãng ra không để ý, thường cũng viết nên một thứ tiếng Việt rất ngây ngô mà có sao đâu! Song một thái độ nghề nghiệp nghiêm túc không cho phép người ta cẩu thả hoặc vô ý như thế. Đừng nên nghĩ mình đã là người Việt giờ nói và viết tiếng mẹ đẻ thì không thể sai được! Mà hãy luôn luôn ghi tâm khắc cốt rằng còn lâu chúng ta mới nắm được thứ tiếng sinh động này. Sẽ là có lỗi với ông cha rất lớn nếu chúng ta không biết làm cho nó trở nên sinh động hơn, ngắn gọn và chặt chẽ tức giàu sức biểu hiện hơn, mà lại khiến nó mòn đi, tã đi, tướp ra, thậm chí đôi khi trở nên nhem nhuốc như là trong tay một số người không biết sợ, mất hết cảm giác thành kính và nói chung là chẳng coi cái gì là quan trọng hiện nay.

NHẬN DIỆN NGƯỜI ĐỌC HÔM NAY

Nói gì thì nói, chắc chắn còn phải rất lâu nước ta mới trở nên một xứ sẵn giấy, nhiều nhà in và có đội ngũ làm sách lành nghề, chưa nói đến chuyện đưa ra trình làng sách hay, sách lạ, sách có thể xuất đi thế giới… hãy tính tổng số đầu cuốn, tổng số bản in nhất là ấn bản tính theo đầu người, sự thua kém so với thiên hạ kể đã rõ ràng. Ấy vậy mà không hiểu sao sách đã thừa, đang thừa, ngổn ngang ê hề ở các sạp các tiệm. Ở đây có chuyện của người làm sách, đấy là yếu tố thứ nhất, cố nhiên. Nhưng còn về phía người tiêu thụ sách, thực trạng ra sao?

Từ người được cung cấp đầy ảo tưởng…

Để hình dung về văn hóa, từ lâu, còn có một cách nói khác, tuy cũng không mấy văn vẻ, song tiện dụng và được mọi người công nhận, ấy là xem văn hóa như một ngành cung cấp thức ăn tinh thần cho xã hội. Và sự cung cấp mấy chục năm thời bao cấp là một quy trình tự cấp tự túc, có sao phục vụ vậy, “cây nhà lá vườn” loanh quanh các món cũ, tà tà mà làm, được cái mùa nào thức nấy không có hàng rởm, cũng như cam đoan không chạy theo các thứ mốt giả tạo. Điều này cũng đúng với việc làm sách mà chúng ta đang nói. Trong thời ấy, sách có một vai trò nổi bật. Nó được xem như một món ăn tuyệt hảo, đôi khi phải nói như là xảy ra tình trạng sùng bái sách nữa. Với sự sùng bái ấy “nhà nhà đọc sách, người người đọc sách”. Săn lùng sách, thu góp sách ra để khoe với nhau, và tin tưởng ở những phép màu mà sách đem lại – những háo hức như thế một thời được mọi người chia sẻ và thông cảm. Và những người nghĩ rằng từ xưa vẫn thế, mãi mãi từ nay về sau còn thế, mãi mãi những người làm sách đóng vai trò một thứ siêu quyền lực ban phát kiến thức và niềm vui cho đám chúng sinh mê sách.

Đến người mua hàng thực dụng

Trong số những hụt hẫng, mà nền kinh tế thị trường lâu nay bày ra trước cuộc sống, khu vực văn hóa chịu hậu quả hơi muộn, nhưng không phải vì thế mà không lãnh đủ. Nhìn vào quá trình tiêu thụ sách, sau sự bột phát buổi đầu, càng ngày người ta càng nhận ra một sự thực là sách không còn nghễu nghện đóng vai trò sang trọng như hồi trước.

Đặt bên cạnh các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, sách hiện ra như một cái gì tẻ nhạt. Trong khi niềm vui của người ta ngày mỗi một đa dạng hơn và chắc chắn cũng thông tục hơn thì niềm vui do sách mang lại đơn điệu và cũ cũ thế nào ấy.

Thế còn khả năng tuyệt vời của sách mà một hồi người ta mô tả như một thứ thuốc thần diệu “bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ”? Cái đó vẫn có nhưng giờ đây được hiểu lại. Kiến thức, tư tưởng, tình cảm, nói chung cái hay cái đẹp trong sách là thứ khó tiêu hóa và chắc chắn phải mất công mà cũng chưa chắc ai cũng tiêu được, giờ đây người ta nghĩ vậy. Mà đấy còn là cách nghĩ của loại người gọi là “cổ điển”, làm gì cũng chần chừ và nói chung rụt rè ít tham vọng. Những người khác, hiện đại hơn (với nghĩa băm bổ hơn, quay cuồng lao vào kiếm sống hơn) nói toẹt ra thế này: “Đấy, theo dõi bút nghiên mãi có ăn nhằm gì đâu, thôi làm cái mẹt ra chợ vậy”. Với họ từ nay, chỉ có loại sách nào giúp cho việc kiếm tiền, hoặc chí ít, góp vui có tác dụng giải trí chút ít, trước và sau những cuộc kiếm tiền, mới được hâm mộ. Tóm lại, sự khủng hoảng của sách (nghiêm chỉnh) chẳng qua chỉ là một phần của sự khủng hoảng văn hóa. Ngán văn hóa nói chung, người ta sinh ra ngán sách, có gì là lạ.

Trong số những lý do làm nên sự thiêng liêng của sách hôm qua có một điểm nhỏ, nhưng cũng nên nhắc tới: hồi ấy sách đứng ngoài khu vực đồng tiền có thể khống chế. Có những cuốn sách nhãng ra không mua, sau không sao mua lại nổi. Của tự nhiên mà! Tuột là hỏng! Nay quy trình cung cấp sách được hiểu khác. Sách ra theo lối hàng loạt. Dù có cao thấp đến mấy cũng vẫn là hàng hóa, có nhu cầu ắt có người cung ứng, nhu cầu lớn bao nhiêu rồi cũng thỏa mãn được. Hóa ra, nhiều sự ham muốn về sách của người ta hôm qua là giả tạo. Chạm đến đồng tiền nó xẹp hẳn.

Đói no phân biệt

Nói một cách khái quát thì đại khái người đọc, người tiêu thụ sách hôm qua là những người đói. Mỗi khi nghĩ tới sách họ thường xuyên mang tâm lý của kẻ lúc nào cũng khao khát, cũng thèm thuồng và tin rằng không bao giờ mình được thỏa mãn! Luôn luôn họ phải lo liệu, tìm kiếm, kể cả vơ vét, nhặt nhạnh, rồi còn phải phòng xa, dự trữ đủ thứ. Sự tấp nập trong việc truy lùng sách hôm qua, sở dĩ kéo dài, lý do là ở chỗ ấy.

Người tiêu thụ sách (= người đọc) hôm nay, cũng như người mua hàng nói chung, trở thành ông chủ, trở thành thượng đế đối với người sản xuất, ở đây là sản xuất sách: Về mặt ứng xử, thái độ của họ – ý chúng tôi muốn nói tới một thứ bạn đọc trung bình chứ không phải những độc giả chọn lọc – là thái độ của người được chiều, lúc nào cũng no, mà thức ăn bày ra trông đến hoa cả mắt, nên tha hồ ỏe họe, món này chỉ động đũa một tí rồi bỏ, món kia thì chê nhạt nhẽo ôi oai. Trong khi nghề làm sách đã trở thành quy trình công nghệ đủ sức sản xuất hàng loạt thì “độ dày tiêu thụ” và cả túi tiền của người mua sách không kịp nở ra theo, mà vẫn bé nhỏ như cũ. So với những cơn đói triền miên hôm qua, thứ bệnh “ứ ách” hôm nay có vẻ quý phái hơn, nhưng bảo rằng dễ chữa hơn thì… chưa chắc.

Những hệ lụy xa xưa

Lâu nay, khi nói về người tiêu thụ văn hóa ở nước ta, có hai điểm mạnh, thường vẫn được coi là đương nhiên:

Một là, khả năng tiếp nhận của họ, lớp công chúng ấy, gần như vô tận, văn hóa phẩm nói chung, sách nói riêng ra bao nhiêu cũng là không đủ.

Hai là sự sáng suốt của công chúng trong việc lựa chọn, ở họ thường xuyên có con mắt xanh thông cảm, họ biết gạn đục khơi trong, họ không ngại đọc những sách khó, miễn là có sách hay sách tốt. Không dễ gì mà chiều nịnh họ, đánh lừa họ.

Ngày nay thì cả hai ưu thế đó có vẻ giống như những giả tưởng mà người ta gán cho công chúng, hơn là đức tính có thật. Chân dung người đọc sách hôm nay, đáng lẽ đấy là điều các nhà xã hội học phải sớm phác họa, để chúng ta có dịp đối diện với hình ảnh của chính mình mà có sự đánh giá thích hợp. Trong khi chờ đợi một sự nghiên cứu khoa học và xác đáng, mọi người đành sống bằng cảm giác, bằng đoán định vậy: chẳng hạn với những người làm sách báo gồm từ các nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà khoa học viết sách phổ biến, và trước tiên, các “đạo diễn”, là giới xuất bản, kể cả những người bỏ tiền ra in sách, thì trong những điều mà lúc này họ thường xuyên nói với nhau trước tiên là sức mua có chiều hướng giảm sút. Số lượng bản in cho các đầu cuốn, từ năm nọ qua năm kia, cứ tụt đều đều. Năm ngoái năm kia, tiểu thuyết khá khá còn dám cho in 2-3000 bản, năm nay đã lùi xuống loanh quanh bên con số 1000. Với giới phát hành, sách mỗi ngày mỗi khó bán hơn, những cú làm ăn tưng bừng hình như ngày càng hiếm hoi so với vài năm trước. Một điều đáng kể nữa, mà chỉ những người thật tâm huyết với nghề mới để ý và đau xót, ấy là tình trạng nhiều người mua sách bị đánh lừa, bị qua mặt dễ dàng, một số cuốn sách ai cũng biết là nhảm nhí, dễ dãi, chỉ làm bìa lòe loẹt một tí lại bán trót lọt, trong khi sách hay sách tốt, sách dịch kỹ, viết kỹ, biên tập kỹ thì nằm yên không nhúc nhích trên giá. Nói người đọc ở ta chỉ có một dạ dày tiêu thụ quá nhỏ, còn là đơn giản. Trong nhiều trường hợp, khi cần chọn thức ăn hình như họ còn nhầm lẫn lung tung, thật giả không phân biệt, tốt xấu không rành, song lại nghi ngờ mọi sự hướng dẫn, chỉ chăm chăm đi tìm các thứ của hiếm của lạ, để rồi nhiều khi ăn vào bao nhiêu lại tống ra bấy nhiêu, hoặc rước bệnh vào mình, mà không hay biết. Họ, lớp công chúng ấy, trở thành một thứ con mồi lý tưởng cho loại lái buôn làm sách thương mại bất chấp văn hóa. Vậy là người đọc cũng đang phân hóa? Còn nghi ngờ gì nữa! Và trong cái hội hóa trang vừa náo nhiệt, vừa nhếch nhác của sách hôm nay, cả người làm sách lẫn người đọc đều có lúc đóng những vai không lấy gì làm hay ho lắm? Sự thực là thế, lấp liếm che đậy làm sao nổi! Ở đây chỉ cần nói thêm một điều rằng: Nếu như những nhận xét trên là đúng thì chúng – các vấn đề về người đọc – phải được coi là những căn bệnh kéo dài từ lâu. Văn hóa luôn luôn là chuyện của thời gian – người ta lại phải nhắc nhau điều đó để thấy những tai biến hôm nay, suy cho cùng, chắc là do những khâu nào đó của văn hóa đã bị làm hỏng từ nhiều năm trước, và chắc chắn còn phải tốn nhiều công sức, rồi ra chúng ta mới mong hình thành được một lớp bạn đọc chân chính.

VỀ DI SẢN VÀ LỄ HỘI

SỰ LÊN NGÔI CỦA THÓI VỤ LỢI

Không gì xa lạ với văn hóa bằng tinh thần thực dụng. Song đáng tiếc là tinh thần thực dụng ấy lại đang có mặt và chi phối cách tổ chức của một hoạt động văn hóa có quy mô lớn như lễ hội.

Thật khó hình dung đời sống văn hóa những năm gần đây, mà lại bỏ qua câu chuyện lễ hội. Trong khi các rạp chiếu bóng trở nên vắng vẻ, và nhiều rạp hát chỉ sống thoi thóp, thậm chí cả đến những trận bóng đá trong nước cũng để trống cả khoảng lớn trên khán đài, thì nhiều lễ hội lại hiện ra như một cảnh diễn sôi động và cùng lúc có sức thu hút tâm trí của hàng triệu người. Sau những ngày lễ hoặc chủ nhật, trong những phút kề cà bên quán nước, hoặc trước khi bàn việc làm ăn, trên cửa miệng nhiều người là câu chuyện rôm rả, hào hứng chung quanh lễ hội vừa được tham dự. Một phương diện khác, có thể quan sát để không cần đi đến lễ hội, mà vẫn có thể bảo nó đang bùng nổ, là những lời mời mọc hàng ngày kêu gọi người ta đến với lễ hội… Vào dịp đầu xuân, ở mục thông tin quảng cáo của truyền hình, nơi lâu nay là đất tung hoành của các loại bia, dầu nhờn và xa xỉ phẩm, bỗng xuất hiện những dòng chữ khiêm tốn, nhã nhặn: Chùa X… làng (xã) Y… mới được trùng tu, mời bà con cô bác về dự. Nếu như kể đến cách thức tuyên truyền quảng cáo sang trọng hơn, chẳng hạn nhân ngày xuân, có cả những trang báo miêu tả kỹ lưỡng hội này lễ nọ, thì phải nhận hoạt động văn hóa này đã tìm ra được những cách thức tốt nhất để… không ai yên được với nó.

Có vẻ như nay là lúc mà các hoạt động lễ hội ở vào thời điểm “trăm hoa đua nở” và trong khi nhiều người vẫn rủ rê nhau đi tiếp, lác đác bắt đầu thấy có tiếng phàn nàn, mà lời phàn nàn đầu tiên đáng để ý là: Sao nhiều lễ hội thế? Theo trí nhớ của một người nổi tiếng là “cường ký” (nói nôm na là giỏi nhớ) như nhà văn Tô Hoài, những năm từ 1945 về trước, ở vùng Bưởi quê ông, đây không phải là việc làm dàn đều: Cúng bái thì làng nào cũng có cúng bái. Nhưng hội thì không chắc. Chỉ có một số làng như thế nào đó mới có hội và hội ở đấy mở ra, không chỉ cho dân làng ấy (dân sở tại) mà còn cho dân làng khác đến xem. Quay nhìn cảnh đua đả mở lễ hội hiện nay, người ta không khỏi tự nhủ: hình như lễ hội đang trở thành món thời thượng, thành mốt, cả mốt tham dự, lẫn mốt đứng ra làm chủ lễ chủ hội?! Nếu giả thiết này đúng, thì tức là một hiện tượng, tưởng như hoàn toàn có sắc thái truyền thống lại đang tồn tại theo quy luật của thị trường – điều oái oăm khó giải thích mà cũng khó rành mạch với nhau trong thái độ, chính là ở chỗ này.

Xét trên lý thuyết về lễ hội, tức thử nhìn lễ hội dưới góc độ văn hóa, có thể nhận thấy từ xưa, con người đã đến với lễ hội với hai định hướng:

Một là, tìm về sự thiêng liêng, để tinh thần có dịp thăng hoa cộng cảm với đời sống linh diệu mà đôi khi trong sinh hoạt hàng ngày, nó bị đánh mất.

Hai là, tìm về cộng đồng, đám đông, để củng cố thêm sự tự tin, lòng ham sống. Đi hội tức là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng thú vị, người ta cảm thấy như được vượt ra khỏi sự thống khổ của đời sống thường nhật, để tha hồ sống thỏa thích, sống theo ý muốn.

Từ xưa tới nay, hai hướng này đã là động cơ thúc đẩy người ta lo dọn bãi, dựng rạp, trình diễn các trò vui trong dịp hội làng, hoặc kiên nhẫn lần theo những vệt đường mòn, tìm tới những lễ hội lớn, quy tụ cư dân một vùng đất. Có cảm tưởng là hình thức lễ hội xưa thích hợp một cách tuyệt vời với trạng thái tâm lý của con người lúc ấy. Còn giờ đây thì sao? Ý niệm thăng hoa suy cho cùng vẫn chìm sâu trong mỗi cá nhân, song chắc chắn, sức tác động của nó không còn như cũ. Đốt đuốc đi tìm cũng không sao tìm thấy người đi hội để mong ướm thử hài tiên và trở thành vợ vua, như cô Tấm ngày nào. Trong ngưỡng vọng về nguồn lờ mờ ám ảnh cả cộng đồng, người ta chỉ cảm thấy phải tiếp xúc với những đền đài di tích, phải biết chút ít về lịch sử như mọi người thì mới phải đạo. Lại như chuyện sống buông thả, giờ đây, khi mà hàng quán vidéo, karaoke mọc lên như nấm ở các phố phường và các loại bia ôm, cơm ôm nhan nhản khắp nơi đến độ báo chí phải lên tiếng thì còn ai phải chờ đến lễ hội mới thực hiện cuộc sống ngoài vòng cấm đoán như con người trung thế kỷ. Vậy mà người ta vẫn đi hội, tại sao? Đi để “xả hơi” du ngoạn, ngắm cảnh. Và nhất là đi để được sống trong hội, khổ sở về hội, và trở về, nhìn vào mắt những người hàng xóm với chút tự hào nho nhỏ là mình đã đi hội. Tóm lại, đi để cảm thấy mình đã sống giống như tất cả mọi người, để khỏi cảm thấy lạc lõng, cái ý sâu xa là thế. Đây là nói về khách thập phương, bao gồm viên chức tư nhân có nhà nước có, và các loại dân đô thị, đang tạo nên không khí nô nức của các lễ hội. Đám dân đô thị này còn đi, thì người các địa phương có hội còn tích cực phục vụ. Đôi bên hợp cả lại, làm nên những lễ hội tấp nập hơn bao giờ hết và cũng xa lạ với lễ hội ban đầu hơn bao giờ hết… Mặc! Lễ hội cũng phải thích ứng với hoàn cảnh chứ! Giá có ai bài bác, người ta đã có đủ lý lẽ để đáp lại.

Trong một tham luận đọc tại một cuộc hội thảo quốc tế về lễ hội truyền thống tổ chức ở Hà Nội 2-1993, một giáo sư tiến sĩ chuyên về văn hóa dân gian đã nhận xét “Con người tổ chức và tiến hành lễ hội chính là vì quyền lợi của họ. Về thực chất, mối quan hệ giữa con người với những đối tượng được tin là mang tính vụ lợi hay ít nhất cũng là sự trao đổi. Con người dâng lên đối tượng được tin những vật hiến tế, vật dâng cúng. Ít hay nhiều tùy theo từng trường hợp. Để đổi lại, họ yêu cầu đối tượng được tin trả lại cho họ, phù hộ giúp đỡ họ cái cần” (Niềm tin và lễ hội – Tô Ngọc Thanh, in trong Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, NXB Khoa học xã hội, 1994, trang 268-269). Không rõ nhận xét này có đúng với lễ hội trên thế giới nói chung (kể cả những xứ, ở đó, người dân có niềm tin tôn giáo sâu sắc), song đối chiếu với xã hội Việt Nam thì thật chí lý, càng hôm nay càng có lý. Với đà trưởng thành của nhận thức, niềm tin vào cái thiêng liêng ở nhiều người có thể xói mòn. Song niềm tin vào khả năng giao cảm với thần thánh (trước tiên là cái quy ước ngầm “có đi có lại”) không bao giờ mất.

Với những người này, đến với lễ hội giờ đây thực sự là chuyện đi lễ, nói nôm na là đi cầu tài, là tìm sự hỗ trợ của thần thánh trong những mưu đồ hốt bạc. Chả thế mà người ta tranh nhau bộc lộ lòng chân thành và trên nét mặt người có lễ vật hậu hĩ hơn cứ thấy lồ lộ một niềm tin như đinh đóng cột, tin rằng đấng thiêng liêng thế nào cũng phù hộ mình đầy đặn hơn những kẻ sửa lễ sơ sài. Chừng đoán ra rằng sau những chuyến lễ bái như thế này, đám dân đô thị sẽ hái ra của, nên người địa phương nơi lễ hội cũng tìm mọi cách để kiếm chác. Hàng bán được đưa lên ngay bên những nơi linh thiêng nhất để quát với giá thật đắt và nếu trước khi ra về, có giúi vội cho đám khách thập phương ấy một số thứ hàng kỷ niệm loại rổm, thì không bao giờ người ta lại hối hận cả. Thôi thì lạy trời lạy phật, mỗi bên một tí, cho hợp với lẽ công bằng! Lại đã thấy có những trường hợp, sự vụ lợi tiến sát đến điều giả dối, chẳng hạn biến một ngôi đền vốn thuộc dâm từ thành đền thờ anh hùng dân tộc, hoặc sửa sang tô điểm một điểm du lịch vừa phát hiện thành một nơi có ý nghĩa lịch sử. Trong cơn say lễ hội sự đắp điếm còn đương quá lộ liễu ấy bắt đầu bị nghi ngờ. Nhưng chưa ai buồn lên án. Và nó vẫn tồn tại. Biết đâu, chả có lúc, thời gian sẽ mang lại cho thứ di tích mới được kiến tạo ấy một vẻ rêu phong và các nhà khoa học lại đổ xô vào mà phát hiện, nghiên cứu. Lúc bấy giờ, sự vụ lợi mới thật đắc ý về khả năng bách chiến bách thắng của nó.

HIỆN TƯỢNG “LẠI GẠO”

Trên báo Văn Nghệ, có lần, tôi đã được đọc một truyện ngắn, trong đó kể chuyện hai vị cán bộ về hưu, tranh nhau chức chủ tế, trong một dịp làng mở hội.

Trước mắt tôi, bài tạp văn Chiến binh khi đã về già của Nguyễn Khải * bày ra một cảnh thay đổi vui vui như sau: Gần năm chục năm trước, thị xã Hưng Yên bước vào kháng chiến chống Pháp bằng một cuộc từ bỏ lớn, đó là từ bỏ mọi thói mê tín vốn đã thâm căn cố đế: “Bói bụt ở chùa Chuông, bỏ. Xin thẻ ở đền Mẫu, cũng bỏ. Rước Niềm, rước Du của hội Mẫu vào tháng ba ta cũng bỏ luôn. Hình như mọi người không ai bảo ai đều muốn sống theo lề luật mới (…)”. Còn giờ đây thì có hiện tượng ngược lại. Người ta đua nhau lễ bái… Và lạ nhất là mấy ông cán bộ cũ nhà mình cũng tham gia vào việc tế lễ một cách hào hứng. Một người trong số đó được tác giả phác họa khá tỉ mỉ: “Ông nói ngày nhỏ có người xem lá số của ông, bảo ông có số thờ. Một đời trong quân ngũ, có lúc nào nghĩ tới cúng bái, đã tưởng lá số lấy sai; nào ngờ lúc về già, lại được làm tôi tớ của Mẫu, cả ngày quanh quẩn nơi thờ tự của ngài, chả còn thiết gì đến con cháu. Một nhân vật như thế, có sự ăn nhập tuyệt vời với đám đông chung quanh. “Các bà đi lễ chắp tay đồng thanh nói: Lạy Mẫu mớ bái, Mẫu đã chọn làm ghế làm đệm của Mẫu làm sao mà trốn được. Ông kia lại nói, tiếng bổng tiếng trầm, lời lẽ cứ trôi ra tuồn tuột như một anh thầy cúng rất thạo nghề, rằng từ ngày được hầu hạ Mẫu, vợ chồng ông rất khỏe mạnh, con cái đều ăn nên làm ra, tức là ngài đã xá u xá mê xá nhầm xá lỗi cho ông vì ông đã biết quay đầu trở lại. Các bà tín nữ lại đồng thanh kêu tiếp: Lạy Mẫu mớ bái, ngài giơ cao đánh khẽ”.

Điều thú vị nhất là ở đoạn về sau, tác giả chợt phát hiện cái ông già hoan hỉ được hầu hạ Mẫu ấy, gần năm chục năm trước, là một chiến sĩ: “dáng vóc cao lớn, đội mũ sắt, khoác xà cột da, ngang lưng đeo một khẩu súng ngắn và hai trái lựu đạn”, từng đã đứng ra diễn thuyết về kháng chiến, và trong tâm trí tác giả, là “cái chân dung hào hùng và lãng mạn của một chàng trai Việt Nam buớc vào chiến trận”.

Trong tiếng Việt, chữ lại khi đặt trước một từ khác, là để chỉ một quá trình đảo ngược: Như lại bữa là ăn trả bữa; lại gạo là chỉ bánh đã nấu, mà trở lại khô cứng, như khi chưa nấu; hoặc lại giống là sự xuất hiện một yếu tố của tổ tiên xưa như người có lông, người có đuôi…

Trường hợp mà Nguyễn Khải vừa miêu tả ở trên (cũng như nhiều chuyện tương tự đã được nhắc tới đây đó trên mặt báo) đúng là một sự lại gạo ở cấp tinh vi hơn: lại gạo trong cách sống, trong niềm tin. Người ta quay trở lại với những gì từng lên án và xem là cổ hủ, lạc hậu. Hơn thế nữa, đó là một sự trở lại thành tâm, tự nguyện, khiến cho con người trở lại kia thấy sung sướng đến nở lòng nở ruột. Cuối cùng, chỉ có cách kết luận: trong khi tham gia vào cuộc vận động cách mạng hôm qua, những người ấy chưa có sự nhận thức sâu sắc, chẳng qua thấy xung quanh làm thì cũng hùa theo. Có nhận thức sâu sắc thì trong khi hoạt động, đồng thời làm công việc tự cải tạo, làm thay đổi hẳn con người của mình. Còn như hùa theo mọi người thì không trước thì sau, sẽ trở lại với cái lai do bản mệnh. Và bởi mấy ông cán bộ nói trong bài tạp văn Chiến binh khi đã về già, chẳng qua cũng là nông dân, cởi áo cán bộ ra là nhập ngay được với bà con làng xóm, cho nên, vấn đề nhà văn Nguyễn Khải nêu lên ở đây cũng là vấn đề nhức nhối của nông thôn ta hiện nay, sự trở lại của những tập quán mê tín dị đoan, mà có một thời chúng ta tưởng đã tuyệt diệt. Trong khi suy nghĩ về hiện tượng này, và những hiện tượng lại gạo tương tự, có người chỉ đổ thừa cho kinh tế thị trường. Nhưng có lẽ, nên tìm nguyên nhân ở ngay trong quá khứ mấy chục năm qua: có phải là trong khi mải miết với những công việc lớn lao, mỗi chúng ta cũng như cả quê hương làng xóm chúng ta chưa để cho cái mới ngấm sâu vào mình cho nên khi có dịp thuận lợi, lập tức cái cũ bột phát trở lại?!

Đến đây, có thể có người sẽ lý sự: – Sao anh làm gì mà nghiệt ngã thế? Cái chuyện hôm qua tôi bỏ lễ, bỏ bái là sai, giờ tôi có quyền sửa! Chính nhờ cách mạng rồi tôi mới hiểu ra các giá trị văn hóa dân tộc, nên tôi tính chuyện trở lại, có gì là lạ?

Vâng, đây là một cách lập luận hiện rất phổ biến và nghe ra cũng có lý. Chỉ hiềm có phải là đúng như thế không, thì cần xem kỹ một chút.

Bên cạnh Chiến binh khi đã về già Nguyễn Khải còn có một truyện ngắn mang tên Một thời gió bụi ** kể về một sự việc xảy ra theo hướng hoàn toàn ngược lại. Đọc thiên truyện này, người ta biết rằng tại một làng nọ, có một bọn cả gan đập phá một ngôi mộ cổ. Đó là một bà thứ phi từ đời chúa Trịnh. Mộ bị bật tung, cái xác chôn đã mấy trăm năm (song được chèn quanh bởi những túi gạo rang và lụa là gấm vóc nên thân người con nguyên) nay bị lấy cắp mất cái đầu, chắc để tìm vàng – cảnh tượng thật thê thảm hết chỗ nói.

Một bên mê mẩn với thần thánh và lao vào hầu hạ thần thánh. Một bên làm chuyện bạo thiên nghịch địa báng bổ tổ tiên. Sao ở nông thôn cùng lúc lại có hai hiện tượng trái ngược nhau đến vậy? Theo cách trình bày của Nguyễn Khải thì điều đó chẳng có gì lạ. Bởi đó chẳng qua chỉ là hai mặt của một quá trình – quá trình tính vụ lợi lên ngôi và trở thành nhân tố chủ đạo chi phối mọi hành động của con người. Hóa ra chẳng ai thực sự vô thần mà cũng chẳng ai có được một lòng tin cho vô tư, cho sâu sắc. Cứ thấy lợi thì làm. Có lợi, thì việc càn rỡ, việc xấu, xúc phạm tới mọi điều cao cả thiêng liêng cũng chẳng từ. Rồi nếu nhắm thấy có lợi, thì sẵn sàng cầu cúng đền này miếu nọ, và đứng ra lo việc cầu cúng cho mọi người. Ở cuối bài tạp văn Chiến binh khi đã về già, nhà văn không quên bỏ nhỏ một chi tiết: Trong khi cái con người từng cả đời trong quân ngũ nhưng lại có “số thờ” kia, đang mải miết trò chuyện về sự linh ứng của Mẫu, thì bên chính điện bà đồng đền ngồi nhăn nhó bực bội. Hóa ra có sự ăn chia nào đó không sòng phẳng giữa các bên có liên quan xung quanh những đồng tiền công đức cúng vào đền. Đấy, lý do khiến cho người ta từ chỗ không tin đến chỗ đi thuyết minh về đức tin, thật ra là ở chỗ ấy!

Câu chuyện Nguyễn Khải kể ở đây xảy ra ở Hưng Yên nhưng cũng có thể xảy ra ở Hải Dương, ở Bắc Ninh, ở nhiều tỉnh khác. Sự vụ lợi, suy cho cùng đâu cũng có, thời nào cũng có, và nếu như bảo rằng nó là động cơ sâu xa chi phối mọi hành động của một số người thì cũng là lẽ thường tình. Tuy nhiên ở đây tôi chỉ xin phép bổ sung thêm một chi tiết nhỏ, có liên quan tới cách xử sự đang xảy ra hàng ngày. Là thường những người lại gạo có cách lý sự rất tuyệt vời. Nói cho cùng thì những năm tháng hoạt động cách mạng chưa hết dấu vết nơi họ, và trong thâm tâm, họ cũng có chút xấu hổ. Thế nhưng sau khi thấy cả đời mình thua thiệt và chả còn biết nương tựa vào đâu, họ không còn cách nào khác là lần mò kiếm chút lợi lộc, dù có mang tiếng lại gạo cũng đành chịu. Và để tự biện hộ, họ phải khoác cho hành động của mình những ý nghĩa lớn lao. Bởi vậy mới có những lời rao giảng thật to, rằng mình làm thế tức là tôn trọng truyền thống ông cha, là trở về cội nguồn, và tất nhiên là có ý nghĩa bảo tồn và giữ gìn di sản văn hóa dân tộc. Đây chính là nét đặc trưng mà chỉ sự mê tín thời nay mới có, nó khiến cho thật giả khó lường và có những chuyện buồn cười mọi người trông thấy nhỡn tiền mà không dễ gì thay đổi.

CÁI ĐỨNG ĐẰNG SAU LUẬT PHÁP

… Ở cái chỗ luật pháp dừng lại, người ta vẫn luôn luôn có thể suy nghĩ dưới góc độ đạo đức hoặc văn hóa để trước tiên là hiểu hiện tượng, sau nữa là tìm cách khắc phục nó…

Luật pháp thường được định nghĩa trong các từ điển như là những quy định mọi người nhất thiết phải tôn trọng trong khi đạo lý suy cho cùng chỉ có nghĩa là những ước lệ hợp với lương tâm con người lại được xã hội thừa nhận và khuyến khích nên theo, ai theo được có nghĩa đấy là người tốt. Một hành động bị coi là phạm pháp, khi nó xâm phạm đến quyền lợi hoặc của cả cộng đồng hoặc của các thành viên trong cộng đồng, do đó, phải bị trừng phạt. Còn một hành vi bị coi là thiếu đạo đức tức là đã bị cộng đồng lên án. Có thể bảo sự lên án này chỉ dừng lại ở phạm vi một dư luận, song đối với người có lương tâm trong sáng, đã là một cái gì rất nặng nề. Lẽ tự nhiên là trong việc phân biệt một hành vi đạo đức và một hành vi phi đạo đức, một cộng đồng đã tự nói về mình rất nhiều. Sau hết, cũng nên ghi nhận rằng mặc dù những tiêu chuẩn đạo đức thường có tính nhân bản, nghĩa là chung cho mọi dân tộc, nhưng đi vào cụ thể ở mỗi dân tộc nó lại mang những sắc thái riêng. Đến đây, bắt đầu thấy xuất hiện vai trò của văn hóa, nó là lối sống, lối nghĩ, các quan hệ giữa con người với thiên nhiên và con người với con người, tất cả đã trở thành nền nếp ở từng dân tộc và làm nên sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác.

… Thỉnh thoảng, tôi cứ phải giở sách ra để ôn lại những ý tưởng trên, nhất là gần đây, đọc báo chí, nghe đài, được biết thêm nhiều hành động mà chúng ta quen gọi là hiện tượng tiêu cực. Nhiều người nông dân hám lợi, mang bán thứ rau quả phun thuốc trừ sâu, ăn vào gây ra độc hại. Các lò mổ bò mổ lợn thường là kém cỏi về mặt vệ sinh nghĩa là ủ sẵn bệnh tật hại người. Nhà máy, bệnh viện hàng ngày tống ra đủ thứ chất thải làm ô nhiễm môi trường. Rồi hàng hóa thì làm ẩu, cốt bán rẻ để cạnh tranh giá kể người mua mang về có không dùng được, thì cũng không quản ngại. Cho đến gần đây lại xảy ra những vụ tham nhũng ghê gớm, tham nhũng đến mức người ta tin rằng các đương sự phải mất hết lương tâm thì mới bảo nhau vét sạch tiền của nhà nước đến như vậy! Có biết bao hành động ngang tai trái mắt đang xảy ra chung quanh, và có cơ ngày một phát triển. Mà lấy luật pháp để trị nhau thì không phải dễ. Tội lỗi ở đây như cái cây, gieo mầm hôm nay, hôm sau mới “kết quả”, lúc bấy giờ người có lỗi đã cao chạy xa bay, ai làm gì nổi! Vả chăng, trong tình trạng xã hội hỗn hào, mọi người chen chúc nhau để sống, muốn lần ra đầu mối của cái ác sẽ gặp muôn vàn rắc rối, dễ gì bắt tận tay day tận trán để luận tội? Nhưng ở cái chỗ luật pháp dừng lại, người ta vẫn luôn luôn có thể suy nghĩ dưới góc độ đạo đức hoặc văn hóa để trước tiên là hiểu hiện tượng, sau nữa là tìm cách khắc phục nó. Chắc chắn là không có gì khiên cưỡng khi gắn một số hiện tượng tiêu cực nói trên và các hành động tương tự với lối làm ăn (kèm theo là lối sống nếp nghĩ) có tự ngày xưa, khi người ta sống theo kiểu khôn vặt (ăn cỗ đi trước lội nước đi sau) và vô trách nhiệm (sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi) chỉ biết đến quyền lợi của gia đình mình (đèn nhà ai nhà nấy rạng), chỉ biết đến cái làng của mình là cùng (trống làng nào thì làng ấy đánh, thánh làng nào thì làng ấy thờ), ngoài ra, bỏ qua mọi chuyện, bởi “có chết thì cả làng cùng chết”. Tóm lại, đồng thời với việc truy cứu về mặt pháp luật, cần xem xét ngay cội rễ của các hiện tượng nói trên về mặt đạo đức – văn hóa, để bắt mạch cho trúng. Đến lượt nó, mỗi tội lỗi, và phản ứng trước tội lỗi – kể cả những tội nho nhỏ, hoặc quá tinh tế, pháp luật không kết luận nổi – lại cũng nói lên một điều gì đó về tình trạng tâm lý xã hội nói chung. Nếu như ở đây có sự dửng dưng, tức thờ ơ, mặc kệ kẻ có tội và không sao hình thành nổi dư luận cũng như không cắt nghĩa được nguyên nhân sâu xa dẫn đến tội lỗi, thì đó chính là một bằng chứng cho thấy sức khỏe tinh thần nói chung của xã hội đang có vấn đề, và sự chữa chạy cho mỗi cá nhân không thể kết quả, nếu không có sự chữa chạy cho cả cộng đồng nói chung.

Đang nghĩ vân vi như vậy thì gần đây, qua báo Nông thôn ngày nay, số ra 12.6.99, tôi lại được biết thêm về một hiện tượng phải nói là kỳ cục giữa công ty X và công ty Y có sự tranh chấp. Để trả thù, bên Y liên tiếp gửi tới bên X những chiếc quan tài và các vòng hoa tang, trong đó đề rõ tên tuổi kẻ thù của mình. Như một phóng viên Nông thôn ngày nay nhận xét, đây quả là kiểu khủng bố chưa từng có ở Việt Nam. Sự việc “độc đáo” đến mức các nhà chức trách đang phải theo dõi để tìm cách luận tội cho chính xác. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, nhiều bạn đọc của chúng ta, khi nghe chuyện, hẳn không khỏi nhớ tới những cách trả thù vốn có từ xưa, và còn lưu truyền lại qua lời đồn đại của dân gian; căm giận ai thì đi dò hỏi mồ mả ông cha người ta rồi đào lên để hạ nhục. Hoặc làm hình nhân thế mạng, viết tên tuổi kẻ thù của mình lên đó, rồi lấy kim châm chỗ hiểm và thuê thầy địa lý về yểm vào đất độc. Hoặc như trong truyện Tấm Cám, cái đầu của Cám sau khi chết được Tấm mang ra làm mắm để gửi về cho người mà Tấm vẫn gọi là mẹ ghẻ (cũng tức là mẹ đẻ của Cám). Thì ra, cái hành động kia không hẳn đã đơn độc như chúng ta tưởng tượng. Trong khi lên án nó và đồng tình với mọi sự trừng trị đích đáng, đồng thời phải thấy nó thuộc về một cái gì di truyền trong tâm lý xã hội, do đó, có khi hoạt động ngoài ý muốn từng con người cụ thể. Nói cách khác, trong cái hành động kỳ cục kia thấy có cả những căn nguyên văn hóa sâu xa (văn hóa ở đây không chỉ bao gồm tinh hoa mà như các nhà nghiên cứu khoa học xác định, còn bao gồm cả những cặn bã cần vứt bỏ). Và như vậy là trên đường suy nghĩ về hiện tượng tiêu cực, chúng ta có thể phần nào yên tâm vì đã lần đến đầu mối cuối cùng, còn như việc lo chữa chạy thì sao, đấy lại là chuyện khác.

Chắc chắn, mỗi khi đứng trước một hiện tượng tiêu cực, lại còn lo lần ra căn nguyên đạo lý văn hóa của nó, công việc phải làm sẽ trở nên vô cùng bề bộn. Chẳng phải là lâu nay nhiều người chúng ta có thói quen suy nghĩ một cách đơn giản “truyền thống căn bản là tốt”, “đạo lý nhìn chung là lành mạnh”, để xuê xoa mọi chuyện. Nhưng chính bởi thế, nay lại chính là lúc xã hội phải lo tự nhận thức cho thấu đáo hơn. Bề bộn mấy thì bề bộn, để giải quyết đến cùng mọi chuyện tiêu cực, không thể có cách nào khác. Bởi các vấn đề đạo lý văn hóa không chỉ liên quan đến pháp luật mà còn liên quan đến mọi mắt xích khác trong guồng máy xã hội. Nói như một viện sĩ người Nga, ông D. Likhachev: không có văn hóa, xã hội không thể trở thành xã hội có đạo lý.

Và nếu không có cả văn hóa lẫn đạo lý, thì mọi cải cách trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, đều trở nên vô nghĩa, tức không thể thực hiện.

SỰ HỖN ĐỘN KÉO DÀI

Cái cảm giác bao trùm trong tâm trí nhiều người sau khi tham dự một số sinh hoạt văn hóa hiện thời không phải bao giờ cũng một chiều tốt đẹp. Ngược lại, trong nhiều trường hợp, người ta cảm thấy vừa phải đối diện với một thực thể hỗn độn. Giống như khi phải nghe quá nhiều tiếng ồn. Hoặc giống như khi đứng trước một mảnh vườn đủ các loại cây mọc lên mà không ra hàng ra lối gì hết. Mọi thứ đều có song trật tự lại thiếu, và có những sự pha tạp tùy tiện, không dễ chấp nhận.

Cái cảm giác ấy trở nên nặng nề hơn khi đến một số lễ hội. Ở hội này, nhìn quanh chỗ nào cũng thấy biển quảng cáo, hết Cô-ca hoặc Pep-si, lại đến Tai-gơ (trong một số trường hợp họ là nhà tài trợ chính nên mặc sức tung hoành). Và, ở hội kia, trong khi thiếu vắng những trích đoạn văn hóa dân gian cổ truyền có khả năng dựng tạo không khí huyền thoại thì ngược lại nhan nhản những trò chơi “hiện đại” chỗ này đu quay (hoặc xiếc mô tô bay) chỗ kia ném vòng ăn tiền. Thành thử người đến tham dự được sống với quá khứ thiêng liêng thì ít, mà phần nhiều toàn phải nhét vào tai những tiếng hò, tiếng quát thét, tiếng mời chào mua hàng “mua cái này đi ông anh”, “thử một chuyến may đi bà chị”. Ấn tượng còn lại sau một ngày dự hội do vậy là một cái gì nhòe nhoẹt, cái nọ lẫn vào cái kia, và người quẩn vào nhau, chen chúc hỗn hào, và bụi bay mù mịt. Giá mệt nhoài mà hào hứng không sao, đằng này mệt nhoài lại kèm theo bực bội.

Nói cho cùng, quy luật của lễ hội là quy luật của đám đông. Quanh năm làm ăn vất vả, được ít ngày rỗi rãi, chẳng lẽ lại bắt mọi thứ vào khuôn khổ như trong một buổi họp? Hoặc với khách thập phương, phóng xe mấy chục cây số về đây để xả hơi, chẳng lẽ không được phép cười đùa ngả ngốn? Vâng, tôi biết có tới hàng trăm lý do để mỗi người về dự hội cho phép mình bừa bãi một chút, để rồi góp lại làm nên cái ồn ào lộn xộn của đám đông, và người ta bảo rằng rút cục chỉ có người xem người chứ có ai xem hay nghe được cái gì cho rõ ràng. Nhưng trong một chuyến đi theo đoàn du lịch bình dân sang Trung Quốc thời gian gần đây, khi vào thăm các danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở xứ người, tôi đã được chứng kiến những đám đông khác. Người cũng bạt ngàn, chen chân nhau mà đi, có những chỗ người đi sau chỉ thấy lưng của người đi trước, nhưng người ta vẫn giữ được trật tự, từ tốn, yên lặng và các ban tổ chức ở đó không cần giăng loa ra nhắc nhở kêu gọi! Hỗn độn không phải là định mệnh của mọi đám đông, càng không phải nhược điểm không thể sửa chữa của mọi lễ hội, chẳng qua do chúng ta không biết bảo nhau mà thôi.

Có một khía cạnh tâm lý, nó là nguồn gốc gây nên cảnh hỗn độn ở một số lễ hội, ấy là sự thiếu thành kính ở một số người đến dự, và trong nhiều trường hợp, của người đứng ra tổ chức.

“Có yêu mến di tích thắng cảnh và muốn sống lại không khí thiêng liêng của lễ hội, tôi mới bỏ công tới đây, sao anh lại bảo tôi không thành kính?”, người ta có thể cãi lại như thế và bằng lý lẽ, thì có ai chịu ai bao giờ! Nhưng con người ta bộc lộ không phải qua tài cãi lý mà qua cử chỉ hành động; nhiều khi chỉ một nụ cười, một ánh mắt đã nói lên tất cả, và cái này thì người đến hội làm sao giấu nổi! Khi người ta đi hội không phải do người ta ham muốn “tìm về dân tộc” thực sự, mà chỉ mang máng cảm thấy một việc làm hay hay nên làm, rồi do vui bạn vui bè, do đua đả mà làm, khi sự thành kính tìm đến chốc lát cũng bay biến đi rất nhanh. Ý thức không đủ mạnh để chi phối hành động. Đôi khi nó chỉ còn là một thứ chiêu bài, và chiêu bài càng đẹp, thì người thiếu ý thức càng dễ làm bậy. Chuyện này lại càng khó sửa, vì xem ra, có từ đã lâu, báo chí từ trước 1945 đã kêu nhiều lắm. Trong một số báo Ngày nay ra năm 1938, tôi đã đọc một bài viết của Tứ Ly mang tên Hội Lim… Hội liếc, trong đó kể chuyện bọn công tử Hà thành về Hội Lim thường dở trò cợt nhả. Và một người như nhà văn Tô Hoài cũng thú thực với bọn tôi là thuở ông 18-20, thanh niên đi hội chủ yếu là đi… trêu gái. Giờ đây, báo chí không thấy nói tới chuyện đó, thôi cũng cho qua, song trật tự công cộng và niềm thành kính thiêng liêng có phải bỗng chốc mà tạo dựng được đâu.

Một biểu hiện của sự thiếu thành kính thấy rõ rành rành nên không ai biện hộ nổi – và còn cộm lên hơn, so với ngày xưa – đấy là tâm lý vụ lợi. Nếu được “gọi sự vật bằng cái tên của nó”, hoặc nói theo cách nói dân gian “đi guốc trong bụng nhau”, người ta phải nhận rằng, nhiều nam thanh nữ tú đến hội xem là phụ, cái chính là đi cầu tài cầu lộc cho bản thân và gia đình, và chắc hôm sau, về nhà chỉ khoe chuyện cúng bái, chứ khung cảnh lễ hội như thế nào chẳng thể nhớ nổi. Mà có riêng khách thập phương đâu, cả dân sở tại với ban tổ chức địa phương cũng theo tinh thần ấy mà làm việc. Dân làng lo bán hàng, hàng giăng ra từ xa đến gần (đến mức một bài báo viết về lễ hội nọ đã trương lên cái đầu đề khái quát: Chùa hay chợ?) Còn ban tổ chức thì sao? Việc quản lý một đám đông hàng trăm hàng vạn người là cả một chuyện phức tạp. Song không ai nhận là mình không biết, mà chỉ bảo nhau cứ để tự nhiên, thế nào cũng xong(!) Năm nào cũng rút kinh nghiệm mà chẳng năm nào thấy trật tự vệ sinh nhúc nhích. Thành công của một lễ hội, sau hết hình như trông vào mức “công đức” thu được nhiều hay ít, và sự thực người ta đã nghĩ về nó nhiều hơn mọi chuyện khác.

Thường thường, đến khoảng 3-4 giờ chiều các lễ hội đã vãn hẳn người và cho đến sẩm tối thì chẳng còn ai. Không khí lặng lẽ bao trùm tưởng như chưa có đám đông nào tụ họp ở đây cả.

Nhưng đến lúc này, vẫn chưa thể nói rằng sự bình thường đã trở lại. Không có tiếng ồn, song bóng dáng của sự hỗn độn vừa đi qua còn rõ rành rành. Mặt đất là nơi mọi thứ rác thải tự do trình diện. Vỏ chai vỏ đồ hộp hiện ra la liệt. Túi ni lông to có nhỏ có, cái bên trong đầy rác, cái rỗng không để cùng với những mảnh giấy báo giấy lót bay phất phơ khắp nơi. Có những bãi rộng tới mấy ngày sau, người ta vẫn ngại đi qua, vì sợ ruồi nhặng, phải chờ cho nắng gió làm cho chúng khô xác đi và biến mất, rồi người ta mới bình tâm nhớ lại lễ hội. Và bởi lẽ ai cũng chỉ ưa nhớ lại những điều tốt đẹp, nên sự hỗn độn ở đây mới cứ thế kéo dài từ năm này qua năm khác.

TẬP TỤC, TỐT VÀ XẤU

Trong nhiều năm ròng từ trước tết âm lịch qua suốt cả tháng giêng, hầu như ngày nào phóng xe qua cầu Chương Dương bắc qua sông Hồng tôi cũng thấy có cái cảnh lạ lùng sau đây: hai người đèo nhau, người ngồi sau cầm một gói gì to bọc trong ny lông. Đến giữa sông thì xe đỗ, người đằng sau ném cái bọc kia xuống sông. Hỏi ra mới biết cái gói được giữ sau xe thường là bát hương, mang ném xuống sông thế cho hương hồn các cụ mát mẻ. Lại có khi thấy có người ném xuống cả mấy thanh gỗ, chắc là nhà thay ban thờ. Vứt ra sọt rác sợ động nên mang ra sông là tốt nhất.

Hẳn đã có người thoáng nghĩ rằng như thế là một cách phá hoại môi trường. Nhưng đi đường ai cũng vội nên không ai buồn dừng lại nhắc nhau một câu. Mà nghĩ bụng giá có nhắc thì sẽ được nghe người ta lý sự trở lại đâu vào đấy;

– Ơ kìa, tập tục từ các cụ xưa để lại đấy chứ! Thời này mà không hiểu thế nào là trở về nguồn à?

Ngoài chuyện chiến sự Iraq với lại dịch sốt đường hô hấp – ngày xuân, ngồi hàng nước vẫn thấy mọi người kể với nhau đi hội thế này, đi lễ thế kia. Báo Lao động ngày 19-2 -2003 đưa ra con số 3% nói đi để biết, 1% đi theo phong trào, 5% đi để thư giãn còn con số đi về niềm tin tín ngưỡng là 91%. Tôi thì tôi không tin ở những câu trả lời đó của người đi hội. Mà bằng cảm nhận riêng, tôi dự đoán ngược lại, trong thực tế chắc đến quá nửa đi là đua đả, và nhất là để trục lợi: nhờ chăm cầu cúng mà làm ăn được thông đồng bén giọt. Lại nữa có một loại người hàng ngày họ cũng thừa biết là họ sống quá tệ. Nhưng công cuộc làm ăn khi đã vào guồng quá thú vị, lại chung quanh ai cũng bươn bả xông lên như mình, máu tự ái nổi lên nên xuống ngựa không nổi. Cầu cúng trở thành một cách chạy tội. Cầu cúng để tìm thấy chút yên tâm “tiếp tục chiến đấu”.

Có tin ở vùng giáp ranh Hà Nam và Hà Tây có một ngôi đền gọi là đền Thánh Cả. Bên Hà Nam thấy bên Hà Tây đông khách, nên từ 1999 liền cho xây một ngôi đền tương tự với các loại hoành phi câu đối tương tự và gọi là đền trình Thánh Cả để tranh khách. Giải quyết mãi không xong.

Du xuân năm ấy, cơ quan tôi lên Đền Hùng lúc quay về men theo đường từ Phú Thọ, đi xuống Thanh Thủy Trung Hà (sau đó sẽ qua Sơn Tây về Hà Nội). Đường đất chưa trải nhựa, xe xóc khó đi, bụi bay mù mịt. Nhìn ra ngoài, những mặt người mờ mờ sau lớp bụi. Cả cây cối nữa, hai bên đường cây nào cũng phủ một lớp bụi dày. Không còn màu xanh. Toàn những hàng cây đỏ bẻm. Tôi cảm thấy như con người có lỗi. Cây cối cũng khổ vì người. Môi trường bị làm hỏng. Thiên nhiên cũng biến dạng.

Trong số báo Người Hà Nội Tết Quý Mùi, một bạn đọc viết rằng khi sang du lịch Thái Lan, người lái xe tắc xi ở đấy kể là có hai đặc tính làm cho ông ta nhận ra khách hàng ai là người Việt Nam: một là đi xe ô tô không chịu cài dây an toàn, nhắc thì cài một lúc rồi bỏ ra và hai là vào các cửa hàng ăn bao giờ cũng gọi quá nhiều món, sau khi ăn xong bàn còn thừa mứa mới vui. Quả là họ có nắm được cái thần trong cách sống của người mình thật.

Về chuyện thích thoải mái, tôi nhớ hồi 1976-1977 sau khi giải phóng Sài Gòn đơn vị tôi đóng quân tại một ngôi nhà lớn ở trung tâm thành phố, tiện nghi đầy đủ, nhưng nhiều anh em thường không thích tắm ở trong phòng tắm mà thích ra ngoài bể nước. Vục cả cái chậu vào bể rồi dội ào ào vào người mới thấy sướng.

Còn chuyện lãng phí, thì là cả một nếp sống đáng sợ. Nhà mới xây vài năm trông chán đập đi xây lại. Vừa mở điều hòa nhiệt độ vừa mở rộng cửa cho mát. Quà bánh biếu xén lu bù. Giấy tờ vớ vẩn cũng dùng những thứ thật trắng thật xịn…

Bản tin buổi sáng của VTV1 sáng 3-3-2003 đưa tin cả nước trong dịp Tết Quý Mùi và tháng giêng đã đốt khoảng 40.000 tấn vàng mã, tính tiền tổng cộng đến 400 tỷ đồng. Được cái là hầu như mọi nhà đều tham gia vào cuộc tiêu xài này nên không ai coi là lãng phí.

DI SẢN GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Nghề làm tranh dân gian của làng tôi là một thứ đặc sản của văn hóa Việt Nam mà mức độ độc đáo có thể so với rối nước, các điệu chầu văn, các làn quan họ. Đấy là điều không chỉ người trong cả nước biết, mà khách du lịch nước ngoài cũng biết và dân làng tôi lại càng biết. Mỗi lần về quê, tôi lại được mấy ông thuộc loại đàn anh trong làng nhắc nhở:

– Chú phải nhớ rằng tranh của Đông Hồ mình là có mặt ở những bảo tàng lớn của thế giới kia đấy.

Nhưng là dân sở tại, nên so với các nơi khác, dân làng tôi còn biết thêm một điều nữa có liên quan đến di sản của làng. Ấy là mặc dù bàn dân thiên hạ cứ khen như vậy, cứ tự hào hộ như vậy, và tết đến báo chí cứ viết dài dài về làng tranh xưa, nhưng chả ai mua tranh mình làm ra cả! Cái cảnh tết đến, lái buôn các nơi về tranh nhau lấy hàng, thuyền đỗ nườm nượp bên sông, và từng bó, từng bó tranh sẽ theo sông nước tỏa đi khắp chợ cùng quê – cái cảnh ấy chỉ còn là trong tưởng tượng, và thỉnh thoảng ông già bà cả có kể cho con cháu nghe, thì cũng chẳng khác chi kể truyện cổ tích. Thế vào chỗ tranh Đông Hồ xưa, ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, khắp chợ cùng quê bày bán các loại tranh in, tranh phổ biến hiện đại, nhất là tranh Tàu. So với tranh làng tôi làm ra, thì các loại tranh ấy giấy trắng hơn, màu đẹp hơn, nhất là nhiều hình ảnh tân thời, chứ đâu quanh quẩn con lợn, con gà… thành thử giá có đắt hơn tí chút, người ta vẫn thích mua. Rút cục, nghề làm ăn ở cái làng nổi tiếng là có lịch có lề như làng tôi giờ teo tóp hẳn, chỉ còn một hai nhà kỳ cạch làm thứ hàng thửa, hàng kỹ cho khách Tây đến xem và bán cho họ theo giá hàng lưu niệm. Nhưng không phải như thế nghĩa là cả làng bó tay cam chịu, mà phần đông đã sớm tìm được chỗ để hướng sự khéo tay và cái gu tuyệt vời của mình trong mỹ thuật vào cuộc kiếm sống – ấy là làm hàng mã. Đại khái sản xuất đủ thứ, từ voi ngựa, xe máy, xe đạp, tivi, quần áo… tất cả trông cứ như thật, nhưng thực ra là làm bằng giấy, cốt để các nhà giàu chung quanh Hà Nội mỗi dịp giỗ tết, đốt cho người nhà của họ đang cư ngụ nơi âm phủ. Thuyền bè sông nước cũng không cơ động bằng chiếc xe đạp. Theo dọc sông Đuống, cả đàn bà con gái quê tôi cũng đạp xe nhoay nhoáy, mang hàng đi phục vụ bà con buôn bán ở Hà Nội và các tỉnh lân cận. Còn cái chuyện tranh gà, tranh chuột, mấy chục năm nay xếp xó, dân làng cũng không lấy thế làm chán nản, ai hỏi vẫn tự nhận là dân làng Hồ, vẫn tự hào về truyền thống làm tranh ngày xưa như thường. Chỉ có những lúc mệt mỏi quá trong cuộc kiếm sống – sau một chuyến chổng phao câu đạp xe giao hàng chẳng hạn – những người biết nhìn rộng ra chung quanh mới chép miệng:

– Chả bù cho làng người ta cũng là di tích di sản mà chẳng phải đi đâu cả, cứ quanh quẩn đầu làng cuối làng vẫn cơm giò cơm chả.

Quả có như thế! Các làng chuyên nghề làm ruộng tị với làng tôi, còn làng tôi thì lại tị với các làng bên huyện gần đấy, tuy cũng được mang danh là di sản, song dứt khoát không nổi tiếng bằng, ấy vậy mà dân sống mát mặt hơn hẳn. Nói nôm na là làng ấy có một ngôi đền, nếu không phải dâm từ thì cũng chỉ thờ một nhân vật loàng xoàng, và đứng về mặt kiến trúc, chẳng có gì đặc sắc. Có điều, sự đời bây giờ ăn ở cái tiếng: chỉ nhờ có cái tên gọi liên quan đến sự làm ăn mà cái đền giời ơi đất hỡi ấy tự nhiên người đến lễ bái nườm nượp. Mới đầu chỉ đông vào tuần rằm mùng một. Sau gần như ngày nào cũng có người đến lễ. Nhất là vào những tháng trước và sau Tết âm lịch người đông như hội, người chật như nêm, vào đền rồi, có khi đứng hàng tiếng đồng hồ hai tay mỏi rời với mâm lễ đang bưng, mà vẫn không lê nổi đôi chân đến bên bàn thờ. Những ai đi lễ mà lắm thế? Dân buôn, tất nhiên rồi. Nhưng thời buổi này, quốc doanh không chịu kém tư nhân về làm ăn, thì làm sao lại chịu kém tư nhân về lễ bái – nghe nói ở nhiều công ty, anh em xúm lại chuẩn bị vàng hương để “sếp” đánh xe đi làm lễ. Và thế là đền thiêng lại thêm thiêng và gần như cả làng bên ấy sống về cái di tích văn hóa có khả năng sinh lời đó. Đàn bà đi bán vàng hương, xôi bánh, hoa quả, các thứ hàng cúng và không quên những thứ làm no bụng người đi thờ cúng. Đàn ông đi trông xe, đi giữ trật tự, người nào có dáng nho nhã và khéo học lỏm một chút còn đi làm đơn, làm sớ. Việc cho trẻ con cũng không thiếu: Tan buổi học về – đây là nói những đứa chưa tiện bỏ học – chúng sấp ngửa chạy ra trước cửa đền. Đồ nghề chẳng cần gì, chỉ có cái miệng khéo nói, với lại đôi tay bưng bê chắc chắn, là tha hồ dắt khách, thu nhập đằng thằng bằng mấy lương các ông cán bộ huyện! So với người làng tôi, thì dân cái làng có đền thờ quý hóa ấy chẳng những thu nhập có phần hơn, mà lại được cái sướng là hành nghề tại chỗ, bám ngay vào di tích mà kiếm sống, chứ không phải chạy rông ra mãi Hà Nội, và các tỉnh bạn, bởi vậy người làng tôi – cái làng tranh nổi tiếng trên đã vào từ điển – mới suy bì tị nạnh:

– Thế mới là di sản chứ!

Câu nói buột ra tự nhiên song đằng sau đấy tôi đọc ra cả một quan niệm mà như tôi quan sát, nó đang ngự trị dài dài trong đầu óc không chỉ người dân làng tôi mà cả vùng tôi và nhiều vùng đất khác tôi từng có dịp ghé qua. Muốn có được định nghĩa rành rọt rằng di sản là thế này thế nọ, hãy đi tìm các sách nghiên cứu dày cộp, các loại bách khoa đứng tên toàn những giáo sư với tiến sĩ danh vang thiên hạ. Người thường chúng tôi không hiểu được cặn kẽ như vậy. Nhưng chỉ cần biết rằng người dân làng tôi vẫn thuộc vanh vách cái truyền thống làng tranh của mình, thì cũng không trách ai được: chúng tôi cũng thích những cái cao sang ấy lắm. Chỉ có điều, do sống giữa đời thường nên bên cạnh đấy, trong tâm trí chúng tôi không nguôi một nỗi mong muốn sâu xa: Cái gọi là di sản ấy phải nuôi sống được dân sở tại. Di sản không được phép không sinh lợi! Cái lý do khiến cho ở nơi này, di sản được chăm bẵm tươi tốt, nơi kia hoang vắng điêu tàn, rút cục là ở chỗ ấy. Khi một di sản đã sinh lợi, nếu nó không thiêng chúng tôi biết cách làm cho nó thiêng, không có lịch sử, chúng tôi sẽ làm ra lịch sử. Cả làng cả nước mà đã đồng tình thì đâu có khó!

GIỮ GÌN VÀ TÔN TẠO NHƯ THẾ NÀO?

Những ngày du lịch bình dân trên đất Trung Quốc, tới thăm các di sản của họ, có một chi tiết nhỏ mà bạn tôi thường hay nhớ, ấy là những tấm biển có hàng chữ ghi rõ tên di tích, và nói chung là những hàng chữ Hán đặt rải rác trước các ngôi nhà. Chùa Linh Ẩn, núi Phi Lai, vườn Dự, vườn Di Hòa… Chỉ cần có một mỹ cảm tối thiểu thì dù là không biết chữ Hán, người ta cũng có thể hiểu những tấm biển ấy là đẹp, mà chữ đẹp đây được hiểu thật đa dạng: nghiêm trang có, phóng túng có, tôn trọng quy tắc đến cùng, mà phá cách cũng triệt để.

Nhân đây, lại cứ thấy nhớ đến các di tích ở Việt Nam. Nhiều đền chùa ở ta vốn có sẵn những hàng chữ Hán viết ngay ngoài cửa, chữ người xưa viết cũng rất đẹp. Có lẽ vì biết vậy, nên các hàng chữ ấy đến nay còn được tô sửa lại, nơi hư hỏng đều được viết lại. Cứ tạm cho là người Việt Nam viết chữ Hán thì không thể bằng người Trung Hoa và lâu nay, người học thứ chữ vuông này ngày càng ít đi, nên không thể đòi hỏi quá cao. Nhưng gì thì gì cũng phải viết đúng, theo tiêu chuẩn chữ Hán là viết cho đủ nét và ngang bằng sổ thẳng. Tóm lại, phải sạch nước cản một chút! Đằng này ở ta, các hàng chữ này thường được xử lý tùy tiện. Hoặc tô lại chữ người xưa, nhưng vì thợ phục chế không biết nên làm hỏng, chữ mất nét, hoặc nét nọ lẫn với nét kia, xiên xẹo rối mắt. Hoặc mới viết, nhưng người viết học hành không đến nơi đến chốn, nên chữ cứ đờ ra, dại ra (trình độ như thế xưa đâu được phép đề vào những chỗ thành kính). Ý nghĩa ban đầu của việc khôi phục chữ Hán trên di tích, lúc này chả còn gì nữa. Nó không đủ sức gợi ra cảm giác cổ kính, mà chỉ khiến cho người ta buồn cười, vì một việc học đòi không xong.

Tới thăm một di tích, người vô tâm đến mấy cũng muốn biết lai lịch ngôi đền ngôi chùa mình đang đứng, ý nghĩa lịch sử của nó, những nét độc đáo trong cảnh quan kiến trúc, cũng như xử lý nghệ thuật. Nếu được viết đầy đủ, chặt chẽ, những lời giới thiệu này có thể được người tới thăm ghi nhớ sâu sắc, nó giúp cho thời gian thăm thú di tích là một dịp để người ta học hỏi thêm về văn hóa, về lịch sử.

Dường như cũng biết điều đó, nên hầu như tất cả các di tích ở ta cũng có bảng giới thiệu khi đặt ngay ngoài cổng đình cổng chùa, khi treo trong phòng khách. Nhưng hỏi rằng những bảng giới thiệu này đã tuân theo những quy cách chung và đáng tin cậy chưa, thì chưa ai dám chắc. Cách trình bày thường luộm thuộm. Bảng mờ. Chữ xấu, có khi sai cả chính tả. Và sợ nhất là các niên hiệu, con số các năm tháng đôi khi gợi ý nghĩa là không chính xác, hình như chỉ ghi theo lối truyền khẩu, chứ không có bằng chứng sách vở đáng tin cậy. Lạ một điều là trong khi nội dung luộm thuộm thì một số bảng giới thiệu lại có những lời lẽ khoa trương quá đáng, chúng không làm cho người ta thấy yêu mến di tích, mà ngược lại, chỉ gây ra những ác cảm.

Công trình kiến trúc nào cũng cần tu bổ theo định kỳ và càng những công trình cổ, xây cất từ lâu, trong điều kiện kỹ thuật thô sơ thì mỗi khi hư hỏng càng cần xử lý kịp thời. Thế nhưng, theo sự quan sát của các nhà chuyên môn, việc tu bổ đền chùa di tích lại là khâu đang có nhiều lộn xộn. Báo chí gần đây đã lưu ý ngay những công trình văn hóa thuộc tầm cỡ quốc gia, như khu di tích Cố đô Huế, việc trùng tu cũng có chuyện phải bàn! Nữa là với các di sản nhỏ hơn tản mát ở các làng xã, sự tùy tiện càng là điều dễ nhận. Mỗi công trình vừa trùng tu xong thường không giấu nổi vẻ “hiện đại”. Màu ngói quá đỏ! Màu vôi quá vàng! Những hàng cột bóng lộn. Khách thập phương đến thăm trong bụng không khỏi thoáng qua một nỗi xót xa, không được tiếp cận với cái di tích như nó vốn có. Nhưng dân làng sở tại những người chủ trì việc trùng tu thì lại hoàn toàn mãn nguyện. Theo họ, chữa chạy tức là tha hồ tô vẽ, cốt nhang nhác như xưa là được. Chính cái tâm lý sẵn sàng “hiện đại hóa di sản”, cộng với cái gu thẩm mỹ pha tạp… đã khiến cho bộ mặt nhiều đền chùa bị biến dạng và nhiều người chúng ta đã mắc lỗi với ông cha, cũng như mắc lỗi với các thế hệ tương lai mà không hay biết.

Trong số những khái niệm liên quan đến di tích xưa, có một khái niệm gọi là dâm từ. Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của ghi rõ: đền miếu thờ yêu quái. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh thích nghĩa: đền miếu thờ những vị thần không chính đáng.

Xưa nay ở các địa phương thường có những đền miếu mọc lên một cách ngẫu nhiên. Do đầu óc tôn giáo của người dân còn mang dấu vết tư duy nguyên thủy, một thứ đa thần luận tự phát, nên việc nảy sinh và chấp nhận các dâm từ ấy không có gì là lạ. Nhưng ngay từ thời phong kiến, một số vương triều đã có ý thức hạn chế các đền miếu tự phát để hoạt động lễ bái tập trung và có ý nghĩa hơn. Sách Việt điện u linh còn ghi Lý Thường Kiệt trừng trị nặng nề những kẻ ham mê ma quỷ đồng bóng, và dẹp bớt các dâm từ. Công việc của ông, về sau còn được một số vua Trần tiếp tục. Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, phần nói về vua Quang Trung cũng ghi: “… Ngài xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ mỗi huyện một cái chùa rất to rất đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân có học thức, có đạo đức, ở coi chùa thờ Phật”. Ý vua Quang Trung muốn rằng chỗ thờ Phật phải cho tôn nghiêm mà những người đi tu hành thì phải là người chân tu mộ đạo mới được.

Có thể dự đoán là cái điều đã được vua Quang Trung xuống chiếu cho thi hành từ hai thế kỷ trước đến nay mà đề ra chắc nhiều người phản đối. Làng xóm nào cũng thích khoe là mình có đền có chùa không kém gì thiên hạ (!) còn xấu đẹp thật giả không cần biết. Thành thử đứng trên phạm vi toàn xã hội mà xét, thì phải nhận rằng công tác bảo tồn di sản đang có rất nhiều lộn xộn. Có thể nói là tình yêu của chúng ta đối với các di sản không thiếu, nhưng hiểu kỹ về chúng và có cách tốt nhất để giữ gìn bảo vệ, làm cho các di sản đó tồn tại đúng như chúng vốn có, thì lại chưa biết.

YÊU NHAU NHƯ THẾ BẰNG MƯỜI PHỤ NHAU!

Nguy cơ đến với các di tích kiến trúc nổi tiếng không phải chỉ ở sự tàn phá hoặc hờ hững để hoang mà còn từ nhiều phía khác, kể cả cái phía ít ai ngờ nhất: những tùy tiện trong trùng tu, bảo quản.

Nhân dịp trùng tu chùa, một nhà sư ở chùa Côn Sơn cho lôi tất cả tượng cũ ra sơn lại. Mặc dù đã có ý kiến của ngành quản lý văn hóa rằng đừng nên làm thế, nhưng mọi việc cứ được tiến hành. Kết quả là, không biết có bền hơn, tốt hơn không, nhưng chắc chắn các tượng hỏng hẳn về mặt thẩm mỹ, chúng không ăn nhập gì với khung cảnh.

Sự việc đến nay được giải quyết ra sao, báo chí không đưa tiếp, song tôi nghĩ, những người có quan tâm tới công cuộc giữ gìn bảo vệ các di tích văn hóa có thể tìm thấy ở đây một ví dụ về cái cách mà chúng ta cần làm với mọi của cải vật chất tinh thần mà ông cha để lại. Để sang một bên câu chuyện lâu nay dư luận đã nói nhiều là sự dửng dưng, hơn nữa, sự đập phá. Ngay trong trường hợp các di tích được tu bổ để khai thác, thì mọi sự săn sóc ấy cũng chưa thể làm yên lòng ai cả.

Trong số những ấn tượng để lại khi đến thăm chùa Mía ở Sơn Tây, có một điều nhiều người không thể quên: ấy là ngoài cổng chùa mới xây thêm một cái tháp. Chùa cổ thâm nghiêm và giản dị bao nhiêu thì tháp xi măng mới xây thô thiển và xa lạ bấy nhiêu.

Một ví dụ khác: đầu năm 1996 báo Thanh Niên cho biết: để diệt cỏ cho các tháp cổ ở Mỹ Sơn, những người làm bảo tàng cho phun vào các kẽ đá một loại hóa chất. Cỏ có bị chết, nhưng tường tháp lại trở nên nham nhở khó coi.

Còn đây, một chi tiết do chính giáo sư Hà Văn Tấn nêu lên trong một bài trả lời phỏng vấn của báo Tuổi trẻ chủ nhật: “Đình Lỗ Hạnh làm vào thời nhà Mạc thế kỷ XVI thuộc loại đình lâu đời nhất ở miền Bắc. Ở hậu cung đình này vốn có bốn bức tranh cổ vẽ người tiên. Giờ đây tranh cổ bị xóa, thay bằng tranh mới, và cố nhiên vẽ bằng sơn mới”. Còn như cái chuyện tượng cũ được tô xanh tô đỏ, nhiều tượng được gắn thêm những “vầng hào quang” nhấp nháy, hoặc hiện tượng cột gỗ bị thay bằng cột xi măng thì theo Hà Văn Tấn, thấy ở nhiều nơi, chứ chả riêng một nơi nào. Cần chú ý thêm là ngoài lối “vẽ rắn thêm chân” mà ai cũng thấy dở như vậy, còn nhiều tùy tiện khác trong khi lập hồ sơ về di tích. Có khi nhầm lẫn về niên đại. Có khi là thay đổi các tình tiết trong câu chuyện có liên quan đến di tích, thậm chí thay đổi cả tính chất của di sản cho hợp thời hoặc thêm phần thiêng liêng hấp dẫn (chẳng hạn, đang là một dâm từ thờ những vị thần ngẫu nhiên không chính đáng, được cải biên thành đền thờ những người có công với dân với nước) cũng là cả một “di sản” (đúng hơn là di lụy) do lịch sử để lại. Các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật đã có nhiều bằng chứng cho thấy rằng một số công trình kiến trúc ngày nay chúng ta được chứng kiến, thực ra từng bị phá hoại (do thời tiết, khí hậu cũng có mà do nạn binh hỏa liên miên cũng có). Có hư hỏng tức có trùng tu. Chỉ có điều gần như mỗi lần trùng tu là một lần di tích được cải biên theo tinh thần đương thời. Liệu có quá sớm khi bảo rằng: sự tùy tiện ở ta thật ra là một căn bệnh thâm căn cố đế và có một “bề dày lịch sử” đáng sợ!!

Có một lý do khiến cho lối tu bổ và bảo dưỡng di sản như kiểu trên đây, cứ mặc nhiên tồn tại. Ấy là, theo cách nghĩ thông thường thì dẫu sao sự tân trang “mô-đéc hóa” này cũng còn khá hơn sự dửng dưng đang tồn tại hàng ngày hàng giờ chung quanh mà chưa biết làm sao khắc phục.

Nhìn ở một tầng sâu nữa, có thể xem lối làm văn hóa kiểu nhà sư Côn Sơn nói ở trên bắt nguồn từ những suy nghĩ khá thông thường hiện thời:

– Văn hóa là chuyện ai chẳng biết làm và ai làm chẳng được (!).

– Chỉ cốt ở cái tâm, ở sự nhiệt tình.

– “Méo mó có hơn không”.

Có biết đâu, đó là những suy nghĩ vô trách nhiệm. Sau cái bi kịch của sự khoanh tay đã đến lúc nên nói thêm đến cái bi kịch của hành động, vì sau một hành động lầm lỡ, sửa chữa được là khó lắm, nếu như không nói rằng có những lầm lỡ không bao giờ sửa chữa nổi!

Mỹ Sơn là một di tích nổi tiếng mà gần như chỉ sau chiến tranh mới được phát hiện lại. Đầu năm 1996, tới thăm Mỹ Sơn, tôi được nghe kể là: khoảng cuối những năm 70, đầu 80, để làm cho khu thánh địa đỡ gây cảm giác hoang phế, một số chuyên gia rất có thiện chí đã làm công việc chắp nối, tức lấy những mảnh vụn của những ngôi tháp khác nhau dựng tạm lại một hai ngôi tương đối gọi là coi được, cốt giúp người đến tham quan hình dung ra cảnh xưa. Lúc đầu, việc đó thật hợp lòng người và đúng là có gây được chút hiệu quả. Nhưng đến nay, các cán bộ có trách nhiệm ở đây cho rằng không thể làm vậy nữa, nó là cách làm tùy tiện và dễ khiến người ta hình dung sai lạc bộ mặt khu kiến trúc cổ (nhất là khi hiểu biết của chúng ta về lịch sử cũng như văn hóa Chăm còn rất hạn hẹp). Trước khi có được một sự nghiên cứu công phu và một quyết sách hợp lý, tốt hơn hết là cứ để nguyên cảnh đổ nát rồi dọn dẹp cho cả khu di tích khang trang sạch sẽ: không chừng như thế mới là tôn trọng lịch sử. Tiếc rằng các kết luận có phần cay đắng nhưng hợp lý ấy của Mỹ Sơn chưa được khái quát để trở thành tinh thần chỉ đạo trong thái độ đối với di sản văn hóa nói chung. Và tiếng kêu về những vụ vi phạm thô bạo như kiểu Côn Sơn nói ở trên cũng vẫn chỉ là tiếng kêu vô vọng.

LÀM SAO ĐỂ VƯỢT LÊN TRÊN TÌNH TRẠNG
TỰ PHÁT VÀ MANH MÚN?

Vài nhận xét về kiến trúc hiện thời từ góc độ
người nghiên cứu văn hóa.

Ở xã hội ta hiện nay giữa các ngành nghệ thuật thường có một sự phân cách rõ rệt: người ở ngành này mà đứng ra phát biểu về ngành khác, thì chưa biết hay dở thế nào, người ta đã cho là không biết điều, hàm hồ, hiếu sự. Nhưng theo ý tôi đó là một lối nghĩ đã cũ. Sở dĩ một số người thích tạo ra sự phân cách đó là vì họ muốn biến lĩnh vực mà họ đang quản lý thành một lãnh địa riêng, mặc sức thao túng. Kinh nghiệm cho thấy nhân danh “đóng cửa bảo nhau”, người ta rất dễ lấp liếm chỗ sai chỗ dở rồi dẫn đến tình trạng mẹ hát con khen hay nghe rất khó chịu. Trong thời đại hiện nay, mọi mối quan hệ đang được mở ra rộng rãi thì chúng ta cũng nên nói về nhau một cách chân thành, xem đó là một cách để giúp đỡ nhau thiết thực. Đấy là lý do khiến tôi xin phép được nói một vài suy nghĩ về tình trạng xây dựng – kiến trúc hiện thời.

Xu thế tự phát kéo dài

Sau mấy chục năm chiến tranh ròng rã, trong hơn hai thập kỷ gần đây, ở ta, từ thành thị đến nông thôn đâu đâu cũng thấy bừng lên một không khí xây dựng, trước là có nơi ở cho tiện lợi, sau là làm đẹp thêm chung quanh. Đã một thời gian sống quá chật chội, tăm tối, một số người nay nhìn những cái mới mọc lên, thường mê man sung sướng. Nhưng thử tách mình ra một chút để nhìn bao quát chúng ta thấy gì?

Theo ý tôi, đặc điểm lớn nhất của công việc xây dựng vừa qua là lối làm ăn tự phát, thiếu tính toán, thiếu khoa học, gặp đâu làm đấy, tạo nên một tình trạng nham nhở chắp vá.

Chiến tranh là chuyện tàn phá. Để mau chóng chiến thắng, nhiều khi chúng ta đã phải tìm cách phá với bất cứ giá nào. Ngược với chiến tranh, hòa bình là xây dựng. Nhưng hình như trong nhiều trường hợp, cái tinh thần nói trên của thời chiến vẫn được giữ lại, và chỉ đảo ngược đi một chút: nếu chiến tranh là phá với bất cứ giá nào thì hòa bình là xây dựng với bất cứ giá nào.

Có nhiều hậu quả nảy sinh từ lối xây dựng “với bất cứ giá nào ấy”: giá thành cao, chất lượng thường kém cỏi v.v…

Nhưng trước tiên, hãy nói ở góc độ kiến trúc. Trong từng gia đình cũng vậy, mà trong phạm vi rộng rãi hơn, một cơ quan, một ngành một bộ, và cả thành phố cũng vậy, ban đầu có ít tiền, chúng ta chỉ tạm xây dựng theo những kiểu mẫu cũ và một ít hiểu biết sơ sài cổ lỗ về sự tiện nghi và vẻ đẹp. Sử dụng một thời gian rồi mới phát hiện ra rằng chưa hay lắm. Trong khi ấy, lại có thêm ít hiểu biết mới. Thế là cái gì xây rồi thì bấm bụng chịu (hoặc bỏ tiền cơi nới tân trang chút ít), còn những cái chưa xây thì quyết phải làm theo mốt mới! So sánh ngôi nhà nọ với ngôi nhà kia, dễ dàng nhận ra sự tiến bộ. Nhưng nhìn chung cả một dãy phố một thành phố thấy chẳng ra trật tự kiểu cách gì cả. Đại khái giao thông trên đường, ô tô xe máy xe đạp người đi bộ chen chúc lộn xộn như thế nào thì trong kiến trúc cũng bày ra sự hỗn độn như vậy.

Xin tạm gọi tình trạng nói trên là tình trạng tự phát tức là buột ra mà làm, làm lấy được, vừa làm vừa học, làm những cái vĩnh viễn bằng tâm lý ăn xổi ở thì và những hiểu biết nông cạn. Rồi chúng ta lại đã trở thành nạn nhân của những tùy tiện đỏng đảnh trong cái gu thẩm mỹ của chính mình mà không hay biết.

Manh mún, tùy tiện, thiếu quy hoạch

Một khía cạnh khác, cũng đã trở thành một đặc điểm của kiến trúc gần đây, ấy là tính chất manh mún lặt vặt. Cả thành phố cùng lúc xây dựng nên rất nhiều nhà. Nhưng mỗi nhà một kiểu, và hình như các ông chủ không hề nghĩ rằng cần biết là mình ở trong một toàn cảnh phố xá thế nào để tự điều chỉnh cho thích hợp. Ở đây, có vấn đề của văn hóa chung sống: hiện thời, có nhiều việc quan trọng, đáng lẽ ra cả xã hội phải cùng lo, để có một đối sách thống nhất, thì lại diễn ra theo công thức “đèn nhà ai nhà nấy rạng” và kiến trúc cũng không thoát khỏi tình trạng đó. Lại có vấn đề cụ thể của quản lý đô thị (ở Trung Quốc, tôi thấy người ta kể là không bán cho mỗi người vài chục mét đất rồi ai muốn xây kiểu gì thì xây mà nhà nước cho các công ty đứng ra đảm nhận việc xây dựng cả một khối nhà lớn, hoặc cả một dãy nhà khác nhau trong sự phối hợp đồng bộ, rồi cho người mua lựa chọn, tiền nào của ấy). Nhưng để cái đó sang một bên, hãy nói về trách nhiệm của những người làm nghề kiến trúc. Có lần, đọc báo, tôi được biết là ở các trường kiến trúc hiện nay, sinh viên không muốn học quy hoạch và ra trường rất ngại làm quy hoạch vì không kiếm được đồng tiền trực tiếp từ tay người muốn xây dựng. Kết quả ra sao? Có thể nói chúng ta có một nền kiến trúc chỉ nghĩ đến từng ngôi nhà, chứ không nghĩ rộng ra đến cả những quần thể kiến trúc, cả một dãy nhà, cả một khu phố. Trong trường hợp ấy, như chúng ta đều biết, một ngôi nhà dù đẹp đến mấy, cũng trở nên thảm hại giữa những ngôi nhà hàng xóm hoặc xấu xí hoặc cũng đẹp, nhưng lại hoàn toàn theo một kiểu cách khác. Ai đang chịu trách nhiệm về tình trạng này? Hình như chả có ai hết.

Văn hóa và bản sắc

Một số người thường quan niệm văn hóa một cách đơn giản như sau: cứ làm mọi việc theo cách của mình, và nếu như cách đó không giống ai cả, tức là chúng ta đang có một nền văn hóa độc đáo. Nhưng muốn cho chính xác, phải nói ngược lại: hoạt động của con người chỉ trở thành văn hóa khi vượt qua giai đoạn tự phát như trên, để đạt tới một độ chín, độ ổn định vững chắc. Ở đây, luôn luôn cần nhắc tới vai trò của lý tính. Nói như một nhà triết học Đức, ông O. Spengler (1880-1936): “Văn hóa là khuynh hướng tinh thần của một dân tộc đã hoàn tất một ý tưởng nào đó về thế giới. Và khuynh hướng tinh thần xét như một ý niệm nhất trí ấy đã xâm nhập vào tất cả mọi hoạt động của họ, như nghệ thuật, tôn giáo, chính trị.” (những chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi – V.T.N.). Xét theo những tiêu chuẩn này thì nền kiến trúc tự phát, manh mún của chúng ta hôm nay chưa thể gọi là văn hóa, mà là một cái gì tiền văn hóa. Nhưng vì là kiến trúc xây dựng, là những thực thể vật chất được hình thành trên một đất nước nghèo nàn, nó sẽ còn đứng đó để hành hạ chúng ta nhiều năm về sau.

Có một khái niệm giờ đây thường được nhắc tới là bản sắc văn hóa dân tộc. Liệu người ta có thể nhận ngay ra những nét thần thái của văn hóa Việt Nam bộc lộ qua kiến trúc? Dĩ nhiên là chưa. Thậm chí còn có thể nói là đang có dấu hiệu của sự khủng hoảng bản sắc, chẳng hạn đi cóp mấy kiểu nhà Trung Á, hoặc Ả rập một cách ngô nghê. Nhưng đấy là chuyện quá sơ đẳng. Theo tôi nghĩ, bản sắc không chỉ bộc lộ qua một vài chi tiết trang trí, những mô-típ lặp đi lặp lại, mà là trong toàn bộ hồn cốt của một nền kiến trúc. Do điều kiện của toàn cầu hóa, kỹ thuật hiện đại được chuyển giao khá nhanh và hình như chẳng nước nào từ chối nổi. Chỉ nhìn trên màn ảnh truyền hình đã thấy giờ đây đâu đâu các thành phố lớn cũng bao gồm hàng loạt nhà vài chục tầng như những cái hộp lớn xếp chồng cạnh nhau. Trong hoàn cảnh ấy, một người ngoại đạo như tôi nhận thấy cái riêng của một dân tộc không hiện ra trong từng ngôi nhà mà là trong phong cách xây dựng nói chung, tức là cái tinh thần toát ra qua việc bố trí thành phố, sắp đặt những công trình kiến trúc cho hòa hợp với khung cảnh thiên nhiên sẵn có và tạo ra sự ăn ý giữa cái mới xây dựng với những công trình cổ nay đã trở thành biểu trưng của một vùng đất, một xứ sở. Nhưng chính cái đó lại liên quan đến quy hoạch là điều ta đang yếu hơn cả. Rút cục câu chuyện bản sắc cũng không ra ngoài vấn đề chúng ta đã nói từ đầu là đưa sự xây dựng vượt lên trên tình trạng tự phát manh mún hiện thời, và đưa thêm vào kiến trúc nhiều yếu tố lý tính, nhiều sự suy nghĩ, nhiều học vấn hơn nữa.

QUÁ KHỨ
VẪN ĐANG CÓ MẶT

Với tư cách là “cái cách sống riêng của từng dân tộc”, “yếu tố làm cho dân tộc này khác hẳn với dân tộc khác”, văn hóa – theo nghĩa rộng, thật ra có quan hệ tới cả những lĩnh vực rất xa với nó, như tình trạng tham nhũng lan tràn, kỷ cương phép nước lỏng lẻo… Và cả buôn bán nữa.

Tạp chí Xưa và nay – cơ quan của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho in trong số 4 tháng 7/94 bài viết của học giả Nguyễn Văn Xuân Vụ tai tiếng lớn nhất về ngoại thương Việt Nam giữa thế kỷ XVIII (thật ra là đăng lại của tạp chí Thông tin Khoa học và phát triển – Đà Nẵng). Nội dung chính của bài báo là thuật lại nhận xét của một người Pháp khi đem hàng đến bán ở Việt Nam (chủ yếu lúc ấy là ở Đàng Trong). Trong nhật ký của mình, Pièrre Poivre – tên người Pháp – than thở:

– Muốn vào đất nước này làm ăn thì phải mang theo nhiều lễ vật. Người xứ Đàng Trong nghèo, quan lại ở vương phủ vụ lợi. Ngay chúa cũng tham lam nên quan lại cũng đua theo.

– Tôi chẳng còn biết tin cậy ai hết. Chung quanh chỉ thấy toàn bọn trộm cắp.

– Điều làm tôi bối rối khi phải thương lượng với người ở đây là chẳng bao giờ họ nói một lời chân thật. Hôm nay đồng ý, mai đã chối từ. Họ hứa rồi lại rũ bỏ lời hứa, chẳng chút e ngại. Họ kéo cà kê công việc cốt kiếm lợi… Càng cho nhiều, họ càng vòi.

Giá kể hồi đang còn phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm, trước những lời chê bai thẳng thừng kiểu ấy, người ta dễ nghĩ chẳng qua đó là sự vu cáo hèn hạ của bọn thực dân, chúng thường viện đủ cớ này cớ nọ để xâm lược nước ta. (Lúc ấy, thậm chí không ai tính chuyện để những nhận xét kiểu ấy lọt ra trên mặt báo). May thay nay là lúc hoàn cảnh đã khác. Tôi nghĩ nhiều người có thể đồng tình với tác giả bài báo khi không dừng lại ở từng lời từng chữ mà chỉ lưu ý tới tinh thần căn bản toát ra qua những nhận xét nói trên. Bằng một giọng điềm đạm, ông kết luận: “tội trạng của Poivre đối với Việt Nam đã rõ ràng. (Sau này hắn trở thành gián điệp, khuyến khích chính phủ Pháp lúc ấy xâm lược Việt Nam – V.T.N chú). Nhưng “tiên trách kỷ hậu trách nhân” “mà trong lẽ phải có người có ta”… Phải chăng có những điều đáng ngẫm nghĩ sâu xa đối với những ai muốn lấy lịch sử làm bài học và phải học những gì khi mở cuộc ngoại thương”.

Buôn bán cũng là văn hóa

Lâu nay, khi bàn đến di sản văn hóa của dân tộc, thông thường người ta nghĩ đến Hồ Gươm – chùa Một Cột, khu lăng tẩm Huế, chùa Thiên Mụ, chùa Vĩnh Nghiêm… tóm lại là những di sản vật chất.

Song, trong nghĩa đầy đủ của nó, di sản văn hóa còn bao gồm cả di sản tinh thần như thói quen sống, sinh hoạt, lời ăn tiếng nói, cách quan hệ trong làng ngoài nước và các loại hình ứng xử xã hội khác. Hình thành đôi khi tự phát, song đã hình thành rồi, chúng trở nên một thứ ký ức tập thể, có sức lưu truyền qua nhiều thế hệ.

Có người sẽ bảo: nói gì lạ thế, buôn bán đâu có phải là văn hóa.

Nếu hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp, thì văn hóa và buôn bán là hai lĩnh vực hết sức xa lạ. Nhưng nếu hiểu văn hóa theo nghĩa rộng (như Đào Duy Anh hiểu trong Việt Nam văn hóa sử cương, 1938) thì buôn bán (thương mại) là thuộc về kinh tế sinh hoạt, một trong ba bộ phận chính của văn hóa (hai bộ phận kia là xã hội sinh hoạttrí thức sinh hoạt). Qua buôn bán, trước tiên là buôn bán trong nước, người ta thấy trình độ chủ động của một cộng đồng xã hội trong việc tự điều chỉnh các sản phẩm làm ra. Trong việc buôn bán với nước ngoài, vai trò chi phối của văn hóa càng rõ. Ở đây thấy rất rõ trình độ tổ chức của xã hội, ý niệm chung của từng cộng đồng trong xã hội về giàu nghèo, về sự công bằng. Nhất là ở đây, người ta có dịp bộc lộ tự ý thức về chính mình cũng như ý niệm của cộng đồng về những kẻ khác.

Sức sống dai dẳng và khả năng thay đổi.

Ai cũng biết văn hóa là một cái gì lâu bền. Trong văn hóa, muốn thay đổi mọi chuyện phải có thời gian.

Có một lý do nữa, để chúng ta có thể nói chắc rằng những thói quen buôn bán được học giả Nguyễn Văn Xuân nhắc trong bài báo nói trên cũng là văn hóa: đến nay dưới nhiều biến dạng khác nhau, chúng vẫn tồn tại, và sức sống của chúng phải nhận là khá dai dẳng. Chỉ cần đọc các bài báo phanh phui vài vụ làm ăn và nhất là nghe dân trong giới kháo nhau, cũng có thể thấy cách buôn bán của ta hôm nay không thiếu chuyện kỳ cục. Một mặt, không ít nhà buôn ở ta vụng về kém cỏi, tham vặt, lại dễ bị lừa. Mặt khác, với các đối tác làm ăn đứng đắn, thì còn phải rất lâu, qua sự nỗ lực trên nhiều phương diện, trước tiên là trên phương diện nhận thức, chúng ta mới thật sự trở thành những bạn hàng đáng tin cậy.

Thế có nghĩa là mấy thế kỷ qua mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ?!

Không hẳn! Xưa, cha ông cứ làm mà các cụ không biết rằng có người nghĩ thế này thế khác về mình. Nay là lúc sự giao lưu trên thế giới được mở ra rộng rãi, không phải chỉ hàng hóa được trao đổi mà những nhận xét về nhau cũng được trao đổi. Miễn chúng ta không tự lừa mình, mà thẳng thắn nhìn vào sự thực, chúng ta sẽ nghe được mọi nhận xét đã có và có thể có. Và miễn chúng ta muốn giao lưu một cách lâu dài, lại chân thành học hỏi, thì với một sự nhạy cảm có thừa, người Việt sẽ tự nhận diện chính xác để rồi cải thiện được hình ảnh của chính mình.

Là cái lâu bền, nhưng văn hóa – ở đây là những di sản vô hình – cũng là cái thay đổi được, nếu người ta muốn.

SỰ BAO DUNG KHÔNG CỐ Ý

Một số nhận xét về việc tiếp nhận văn hóa ở ta,
xưa và nay

Bây giờ thì ai cũng biết rằng trong quá trình hình thành của mình, văn hóa Việt Nam đã tiếp nhận khá nhiều từ văn hóa nước ngoài. Nếu sự giao thoa giữa các nền văn hóa bao gồm cả nhậncho thì chúng ta đã nhận nhiều hơn cho. Tuy vậy không việc gì phải xấu hổ vì sự tiếp nhận ấy. Chẳng những thế, theo con mắt nhìn hiện đại, chúng ta còn có quyền tự hào: tổ tiên ta đã biết đón lấy cái mạnh của người để làm giàu thêm vốn liếng cho mình.

Cao hứng lên, người ta còn nói văn hóa Việt Nam rất “chịu chơi” tức rất cởi mở, rất bao dung trong tiếp nhận.

Nhưng sự thực có phải là như thế?

Về mặt địa lý, không gian tồn tại của dân tộc này nằm ở giữa một bên là nước Trung Hoa khổng lồ, bên kia là một lô quốc gia Đông Nam Á bé nhỏ, rời rạc, và trong lịch sử, là một thực thể luôn luôn thay đổi. Sách vở gần đây nói nhiều tới căn cước Đông Nam Á của văn hóa dân tộc. Song nhìn lại lịch sử thì thấy mối quan hệ văn hóa Việt Nam – Đông Nam Á đậm đà hơn cả là vào thời sơ sử, nên chủ yếu chìm xuống bề sâu, còn càng về sau, càng biến dạng (ở đây không thể nói tới một quần thể quốc gia dân tộc đồng đều như ở châu Âu hoặc khối Ả-rập).

Còn với văn hóa Trung Hoa và văn hóa phương Tây thì khác. Một thời gian dài, với chúng ta, đấy là những mẫu mực phải theo.

Điều oái oăm là cả hai nền văn hóa ấy cùng đến với ta theo bước chân của kẻ xâm lược. Trong tiếp xúc, ta thường thụ động. Không phải tự nguyện chọn lựa, mà bị áp đặt. Ban đầu ta chống. Rồi chống không nổi, từ chối không nổi, thì mới chịu nhận (về sau lại nhận một cách hết mình, nhận đến cùng, thì đấy lại là chuyện khác).

Đối với văn hóa Trung Hoa: Như các nhà nghiên cứu lịch sử hay nói, mỗi lần đánh thắng quân xâm lược từ phương Bắc tới là một lần dân tộc này bước gần hơn tới văn minh Trung Hoa. Điều này có nghĩa là ngay từ đầu khoảng cách còn lớn. Đến thời Nguyễn, thì ta mới trở nên gần người láng giềng phương Bắc hơn bao giờ hết.

Sự tiếp nhận văn hóa Trung Hoa của ta là mở ra trên nhiều mặt. Nhưng như một nhà nghiên cứu chuyên về vấn đề này là Trần Đình Hượu đã nhận xét, mặc dù Hán học phát triển đến từng xóm làng bé nhỏ, song ở ta không có nhà Trung Quốc học nào đạt tới trình độ được thế giới công nhận.

Cùng với Việt Nam, trong suốt thời kỳ Trung cổ, Triều Tiên, Nhật Bản cũng tiếp nhận văn hóa Trung Hoa một cách toàn diện. Có điều đọc các tài liệu nghiên cứu về Nhật Bản in ra bằng tiếng Việt gần đây, chúng tôi thấy cách tiếp nhận văn hóa Trung Hoa của họ khác hẳn: Do chỗ là một đảo quốc, nên họ không sợ bị xâm lược. Ngược lại một nỗi ám ảnh nơi tâm thức họ là sợ bị tách rời khỏi đất liền, và không tiếp thu được cái hay cái tốt của lục địa. Cũng giống như ta, người Nhật biết rằng họ không có những tư tưởng lớn. Nên họ lo học. Nhưng học rất quy mô, cử người sang Trung Quốc cẩn thận và học đến nơi đến chốn, không toát ước, không tóm tắt học lấy ngọn. Lại theo dõi được cả quá trình phát triển tư tưởng của Trung Quốc mà không bị bắt vít vào một giai đoạn nhất định.

Chúng tôi ngờ rằng lối học – mà cũng là lối tiếp nhận – công khai, đàng hoàng, chủ động, có bài bản như thế ở ta chưa có.

Trong việc tiếp nhận văn hóa phương Tây, cũng thấy những nét tương tự. Ở đây dân tộc ta đã có dịp bộc lộ trí thông minh, óc ham học hỏi. Nhiều kẻ đến xâm lược cũng phải nể trọng. Đồng thời, trong khi làm một cuộc tự nhào nặn lại rất đau xót, văn hóa Việt Nam vẫn giữ vững bản lĩnh, và thể hiện được tinh thần tự chủ cao độ. Tuy nhiên, vẫn cần lưu ý lại rằng việc tiếp nhận nền văn hóa mới mẻ này lúc đầu rất khó khăn. Không phải chỉ vua quan triều đình Huế, mà cả các tầng lớp sĩ phu, những ông đồ nho sống giữa xóm làng, và cả nhiều người dân thường nữa, đã nhìn nhận nền văn hóa mà người Pháp mang tới, với nhiều dè dặt, nếu không nói là khó chịu, căm ghét. Và chỉ khi không từ chối nổi, ta mới đành lòng vậy, cầm lòng vậy để làm theo.

Trở lại với cái nhận xét về sự cởi mở, bao dung mà ở trên đã nói. Người nêu ra ý này chắc chắn xuất phát từ một thiện chí là muốn tìm ra một mặt mạnh của đời sống văn hóa dân tộc. Và thực tế cũng có một sự thật là nhìn vào văn hóa Việt Nam, ở văn hóa tinh thần cũng như văn hóa vật chất, đâu đâu cũng bắt gặp ảnh hưởng nước ngoài. Nhưng, nên nói là các ảnh hưởng này tự nó thấm vào, bị người lạ đẩy vào, hơn là chúng ta muốn. Ngôi nhà văn hóa của ta thường rào dậu thưa thớt, ảnh hưởng không vào theo cổng chính nhưng lại vào theo nhiều ngóc ngách khác nhau, và lúc nhận ra, ta cũng không thể tính chuyện thoát khỏi nó nữa.

Nói bao dung là nói về mặt tình cảm. Một nền văn hóa chỉ có khả năng bao dung khi nó hiểu kỹ về mình và công nhận kẻ khác, nói chung là có ý niệm chính xác về kẻ khác. Mà ở chỗ này, nhận thức của chúng ta còn tồn tại khá nhiều vấn đề. Trong một cuốn sách viết về Việt Nam (chúng tôi được đọc lại bản giới thiệu tóm tắt trên tạp chí Bách khoa in ở Sài gòn, số 73, năm 1960), một giáo sĩ phương Tây nhận xét đại ý: do chỗ trong lịch sử, dân tộc này đã bị quá nhiều thế lực bên ngoài làm phiền, nên họ, tức là người Việt Nam, có xu hướng nghĩ rằng tất cả đau khổ của họ là do người nước ngoài mang tới. Ông ta còn đả động tới một số thói xấu mà theo ông có ở dân ta, như óc kỳ thị, nghi ngại những cái xa lạ, cùng nhiều hạn chế khác trong việc người Việt tiếp xúc với văn hóa nước ngoài. Những nhận xét cụ thể cần bàn thêm, nhưng quả thật là nó đáng để chúng ta suy nghĩ. Nhận thức về mình, về người cũng là một bằng chứng cho thấy trình độ trưởng thành của một dân tộc, và nếu như bộ phận này trong nền văn hóa chung của dân tộc là còn ở tình trạng yếu ớt, thì những hạn chế trong việc tiếp nhận là điều làm sao tránh khỏi!

Chỉ cần tỉnh táo một chút, nghiêm túc một chút trong nhìn nhận, người ta cũng thấy ngay là việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài ở ta vài chục năm gần đây không được thanh thoát như nó có thể có. Khi thì chúng ta cự tuyệt ra mặt: trừ những gì thuộc phe ta không kể, ngoài ra mọi thứ của người ta đều bị xem là hư hỏng, suy đồi, là có mưu đồ xâm lược. Khi thì lại thấy cái gì của nước ngoài cũng là tốt đẹp, cũng là hơn của trong nước, tâm lý vọng ngoại tuy không nói ra, nhưng thực sự là thấm sâu trong tâm khảm cả già lẫn trẻ. Bấy nhiêu nhược điểm sở dĩ tồn tại, không phải chỉ do tác động của hoàn cảnh thời đại, mà còn do một thứ di sản nặng nề đã ăn sâu trong tâm lý nhiều thế hệ, lâu nay do bận bịu quá, ta chưa có dịp bàn tính thấu đáo.

Thói quen suy nghĩ này chắc chắn là không thích hợp với tình hình mới. Việc nhấn mạnh bản sắc dân tộc của văn hóa là cần thiết. Nhưng dân tộc lúc này phải đi đôi với nhân bản. Không gì tốt đẹp của thế giới xa lạ với chúng ta cả. Ta sẽ phải tiếp nhận, học hỏi rất nhiều, học hỏi một cách chủ động, đàng hoàng, có bài bản cẩn thận. Đó không chỉ là kết luận mang dấu ấn của một tư duy hiện đại. Mà với chúng ta, trước tiên đó là một bài học của lịch sử.

TỪ NÔNG THÔN
TỚI ĐÔ THỊ

ĐỐI DIỆN VỚI QUÊ HƯƠNG

Chuyện gẫu quanh một bài thơ của Nguyễn Khuyến

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Từ đã bao lâu nay, bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu) ấy đã được đưa vào các trường phổ thông để dạy, và còn lưu luyến mãi trong tâm trí nhiều lớp người bất kể gốc gác xuất thân là nông thôn hay thành thị. Vào những ngày thu, mặc dù tuổi đã lớn, tôi và đám bạn bè đồng niên, không ai bảo ai, trong dịp gặp nhau cũng tự nhiên nhắc tới nó. Và khi một người đã lên tiếng, thì những người khác đế theo ngay.

Anh A. thuộc loại mơ mộng:

– Khả năng của văn chương là ghê thật. Nó cố định trong mình những hình ảnh, kèm theo đó là bao nhiêu liên tuởng xa gần.

Anh B. để hồn phiêu diêu trong quá khứ:

– Thế mới biết nông thôn mình đẹp, nó có cái vẻ thơ mộng riêng, không đâu có.

Anh C. thì nghiêng về lối tư duy tỉnh táo, nên sau khi đã cố kiềm chế vẫn phải lên tiếng để dội cho mọi người một gáo nước lạnh:

– Ôi dào, đọc cho vui thôi, chứ bây giờ ở nhiều vùng nông thôn, ao chuôm lấp tiệt cả, cái nào còn lại, nước cống đổ vào cũng đen ngòm. Tát ao mới thấy chả khác cái vũng, cá mú đâu mà câu.

Câu chuyện xem chừng sắp đến chỗ ông chẳng bà chuộc, anh D. phải đứng ra dàn hòa:

– Tôi không muốn làm người ba phải, nhưng trong trường hợp này, cho phép tôi được đồng ý với tất cả các anh tức là người nào cũng có lý cả. Nhất là tôi muốn nhấn mạnh thêm một khía cạnh: Qua cái ao, thấy số phận của cả nông thôn, những vùng quê của chúng ta. Nhưng đấy là nông thôn hôm qua. Còn nông thôn hôm nay?

Một sự thiệt thòi…

Nguyễn Khải từng quen biết với bạn đọc xa gần qua nhiều truyện ngắn truyện vừa viết về phong trào hợp tác, trong đó có truyện Tầm nhìn xa chế giễu ông Tuy Kiền, phó chủ nhiệm hợp tác mà tham lam, xoay xở kiếm lợi.

Mươi năm gần đây, nhà văn này vẫn viết về nông thôn, nhưng lại có cách viết khác. Đây là một thí dụ: truyện ngắn Một thời gió bụi (1991).

Trong thiên truyện này, nhà văn kể rằng có một cán bộ đang sống ở thành phố, khi nhận sổ hưu liền có ý định về sống hẳn ở quê. Song chỉ về quê thăm thú ít ngày, ông Tú (nhân vật chính trong truyện) đã phải bật ra, quay trở lại với vợ con. Thì ra xưa nay, trong đầu óc những người như ông Tú, nông thôn là một khu vực bình yên, êm ả, lại có vẻ thơ mộng nữa. Còn lần này về thăm quê, ông Tú nhận ra trước mắt mình là một thực tế quá ư ngổn ngang bề bộn, “một cái làng, một vùng quê không còn quá khứ, không còn lịch sử, cái quá khứ gần nhất là các hợp tác xã nông nghiệp cũng không còn, cũng đã bị phá tan tành”. Quay trở lại với đô thị, ông Tú nghe một đứa con hỏi “Về quê có vui không?”, đành đáp “Cuộc sống gay gắt lắm”. Lại nghe hỏi “Vùng ấy phong cảnh đẹp lắm hả bố”, ông chỉ còn cách trả lời “Bây giờ thì trần trụi tan hoang cả”.

Thú thực trong số các sáng tác gần đây của Nguyễn Khải không phải truyện nào tôi cũng thích, nhưng cái truyện Một thời gió bụi này khá thật. Ít ra, nó cũng nói lên một sự thực: nông thôn ta đang thay đổi, và suy nghĩ của nhiều người về nông thôn cũng đang thay đổi (chữ người ở đây bao gồm cả dân nông thôn lẫn dân thành phố) chỉ có điều tiếc là ngày trước, một thiên truyện như Tầm nhìn xa thì in đi in lại bao nhiêu lần, lại được đưa vào cả sách giáo khoa cho học sinh học, còn những sáng tác như Một thời gió bụi nói ở đây, nếu tôi không nhầm, chả mấy ai biết tới. Và đó là một thiệt thòi, không chỉ với tác giả, mà còn với bạn đọc. Bởi trên con đường đi lên đầy nhọc nhằn của mình, để tránh những bước mò mẫm, nông thôn ta không chỉ cần những lời động viên khuyến khích, mà còn cần cả những ý kiến nhận xét sắc sảo, như của Nguyễn Khải.

Đâu dám xui dại

Khoảng những năm bảy mươi trở về trước, cùng với Vũ Thị Thường, Nguyễn Khải, Nguyễn Địch Dũng v.v… anh M mà tôi quen là một trong những nhà văn chuyên viết về phong trào hợp tác lúc đó đang thời thịnh. Trong khi viết lách, anh có dịp sử dụng cái vốn khá chắc chắn về nông thôn, nó là cái thực tế nhiều năm anh đã trải qua (nói như cái chữ hồi ấy “đã gắn bó với phong trào”).

Những tưởng một người như anh có để cả đời viết về nông thôn cũng không hết chuyện. Song sự đời không như tôi nghĩ. Từ hồi mở cửa (và ở nông thôn bắt đầu khoán 10) anh M của tôi từ giã đề tài nông thôn để đi làm ăn nơi thành thị. So với trước, anh viết khác hẳn. Nào là chuyện buôn bán, công ty này thành lập, công ty kia phá sản. Nào cảnh chè chén linh đình ở các nhà hàng, hoặc ông giám đốc bồ bịch với các cô thư ký… Làm sao mà nhận ra anh M của đề tài nông thôn ngày xưa nữa!

Nhưng viết về đời sống hôm nay, thú thực, M đâu có được cái hào hứng tự nhiên như cánh trẻ. Chẳng gì anh cũng đã trên sáu mươi. Vì thế, trong vòng một hai năm gần đây, anh thấy bí, cứ thơ ra thẩn vào, hết oán trời lại trách đất.

Đặt mình vào địa vị M, tôi cứ tự đặt câu hỏi: sao anh không quay lại với nông thôn. Cái gì quen thuộc viết vẫn thuận hơn – lý luận xưa nay bao giờ chẳng thế. Không viết được về nông thôn làm ăn hôm nay, thì viết lại về những chuyện cũ. Ngày xưa, anh bảo rằng viết khó hay vì bản thân phong trào hợp tác lúc ấy có nhiều cái gò bó. Nay có ai ràng buộc gì đâu, có thể viết về chính những ngơ ngẩn dại dột hôm qua để hôm nay rút kinh nghiệm – văn chương là đi vào khai thác những vấn đề có tầm khái quát, chứ đâu phải “mì ăn liền” như báo chí.

Nhưng nghĩ vậy, rồi tôi cũng chỉ để bụng, không dám nói với M.

Hình như ở ta có thói quen cái gì cũng theo mùa, làm theo mùa và mua bán theo mùa, viết theo mùa và đọc theo mùa. Cái việc anh M xoay ra viết về cái đời sống xanh xanh đỏ đỏ trước mắt ngẫm ra cũng là bình thường, bây giờ ai chẳng viết thế. Không viết được, ấy là lỗi tại anh. Chứ khuyên anh trở lại với đời sống nông thôn, rồi viết ra không có ai đọc tức là xui dại anh, tôi đâu dám, trong khi vẫn tin chắc rằng nếu cần kể ra một người có tài viết về nông thôn thì bao giờ tôi cũng nhớ tới anh ấy.

Một phen lộ mặt

Mặc dầu đều đã bỏ ra thành phố từ lâu, song tôi và anh bạn T. đồng hương vẫn hay gặp nhau và có điều gì mới của quê hương là thông báo với nhau ngay tắp lự. Bữa nọ, đi làm về, thấy anh chạy sang, hồ hởi kể:

– Có biết không, xong rồi.

– Cái gì xong rồi?

– Đường làng đã đổ bê tông gần hết. Cũng đáng công cho anh em mình góp mỗi thằng bao xi măng! Và cho nó tạnh hẳn cái câu tục ngữ truyền đã bao đời “Trăm cái tội không bằng cái lội làng Đông Hồ“.

Vợ tôi đang ở trong bếp, từ nãy chắc đã nghe hết, cũng vui vẻ tham gia ngay vào câu chuyện. Nhưng điều bất ngờ là cô chớp ngay lấy cái câu cuối cùng T. vừa nói, và dẫn câu chuyện quặt sang hướng khác:

– Câu ca hay nhỉ! Nhưng “Trăm cái tội không bằng cái lội làng Đông Hồ” nghĩa là thế nào?

– Còn là thế nào nữa? Ngày xưa, bùn lầy nước đọng, mưa gió, ai cũng ru rú ở nhà, không dám bước ra đường, chứ còn sao nữa.

– Thì bao lần về quê, tôi còn lạ gì cái cảnh ấy! Chỉ hiềm một nỗi là mãi bây giờ mới nghe các ông thú nhận vậy. Chứ ngày xưa toàn là khoe khôn khoe ngoan, nào làng mình còn có tên làng Mái, nào làng Mái văn minh lịch sự lắm.

Hỡi cô thắt lưng bao xanh

Có về làng Mái với anh thì về

Làng Mái có lịch có lề

Có ao tắm mát có nghề làm tranh.

Đến lượt cả tôi và T cùng chưng hửng – Xưa nay, không ai bảo ai, cả lũ chúng tôi cùng có thói quen chỉ nói cái gì đẹp đẽ của quê hương còn cái xấu, cái dở thì lớ lờ lơ coi như không có. Giấu cả thiên hạ đến vợ con trong nhà cũng giấu. Bảo là buồn cười thì sẽ được cười đến mỏi miệng!

Thỉnh thoảng cũng có thầm nghĩ rằng một sự kém cỏi, nếu được nói ra, sẽ thúc đẩy người ta thay đổi nhanh hơn.

Nhưng nói như nàng Kiều của Nguyễn Du, rằng quen mất nết đi rồi, khó bỏ lắm.

Một phen lộ mặt như hôm nay, lại là một bài học.

HIỆN ĐẠI… NỬA CHỪNG

Làng nghề kêu cứu

Thoạt nghe chắc mọi người nghĩ tới một số làng nghề ở đồng bằng Bắc bộ làm ăn sa sút, mặt hàng thủ công không đủ sức cạnh tranh với các loại hàng làm bằng máy móc và nghề tổ bị xếp xó. Đó là một loại “làng nghề kêu cứu” lâu nay báo chí đã viết.

Nhưng những làng nghề tôi nói ở đây lại đang ăn nên làm ra. Chưa bao giờ hàng sản xuất được ưa chuộng như bây giờ, vừa làm rời tay đã có người đến nhận mang đi. Nhân lực thiếu, phải mướn thêm người các làng lân cận sang làm giúp những khâu lặt vặt. Nhà cửa mọc lên san sát. Các tiện nghi hiện đại được khuân về ùn ùn. Bữa cơm có giò, có chả chứ không phải xanh rờn những rau như ngày xưa. Nhưng tôi vẫn muốn bảo đó là những làng ở trong tình trạng kêu cứu, bởi lẽ:

Sự phát triển chỉ đến với từng nhà, chứ nhìn chung làng xóm không có gì thay đổi, cách ăn ở vẫn như từ hàng trăm năm nay các cụ để lại. Đất chật thêm, người đông thêm, hồ ao trong làng bị lấp tiệt lấy đất làm nhà, khiến cho cống rãnh không còn chỗ thoát.

Trước mắt chúng ta là một làng quê quá lứa, quá thì. Đáng lẽ nó phải chuyển thành một đô thị nhỏ. Phải có những ngôi nhà nhiều tầng, có đường sá rộng rãi, hệ thống thoát nước hợp lý, các công trình vệ sinh làm theo kiểu cách hiện đại. Nói chung phải có một môi trường mới, làm cho một cách sống mới. Nhưng đấy là chuyện xa vời, các làng nghề này không đủ sức vươn tới, mà xã hội cũng chưa tính chuyện gợi mở giúp.

Và thế là các cơ sở vật chất cũ kỹ được tân trang tí chút bề ngoài, cứ phải dằn lưng ra gánh vác những thay đổi nhộn nhịp xảy ra hàng ngày. Cả làng như con tàu mắc cạn, không sao cất mình lên được.

Một đặc điểm nữa, thường thấy ở các làng nghề làm ăn phát đạt: trẻ con đua nhau bỏ học, ở nhà làm nghề có ngay đồng ra đồng vào, lại chả hơn sách bút đến trường, mươi mười lăm năm tốn kém, mà liệu có nên cơm cháo gì?! Cha mẹ bọn trẻ nghĩ thế, và bản thân chúng cũng nghĩ thế.

Một cái làng nghề chỉ biết lao đầu kiếm ăn trước mắt, mà không tính toán gì đến tương lai, chẳng lẽ không phải đang trong tình trạng kêu cứu?

Thói quen tai hại

Về thăm Bát Tràng, cảm giác đọng lại trong tôi cũng như ở nhiều người khác, là một cái gì chua xót cho kiếp người. Ở đây chỗ nào cũng thấy khói than bụi bặm. Cả làng là một xưởng sản xuất lớn. Đồ gốm khắp nơi, thứ đang ở dạng sơ chế, thứ xếp trong lò, thứ nằm ngổn ngang chờ xuất đi bán lẻ, và có cả những thứ bóng lọng trong tủ kính. Hàng hóa nhiều quá, hàng hóa lấn át cả những sinh linh đã làm ra nó. Ngập lụt giữa hàng hóa do mình làm ra, con người dường như không còn đứng cao hơn sản phẩm, không còn là chủ nhân ông của mảnh đất này nữa. Mà con người chỉ còn là một chi tiết nhỏ nhoi trong cả guồng máy sản xuất to lớn.

Mới đây đọc báo Nông thôn ngày nay lại thấy nói tới một vùng sinh thái báo động: đó là chuyện ở Văn Thai, Cẩm Vân, Cẩm Giàng, Hải Dương. Dân nơi đây chỉ sống bằng nghề mổ thuê trâu bò. Góc sân bất cứ nhà nào cũng có thể biến thành lò sát sinh. Những thứ thải loại từ các cuộc mổ xẻ thủ công đó hàng ngày tự do tuôn ra đường sá, cống rãnh. Nhiều cái ao biến thành bể ngâm, xương vừa xẻ ra, vứt luôn xuống đấy chờ giòi bọ rỉa nốt những nhánh thịt dính bện mới vớt lên mang bán.

Giá kể ngày xưa, thì chuyện ở Bát Tràng, Văn Thai đã trở thành những ví dụ tốt, minh họa cho bài học về tình yêu lao động và tinh thần chịu đựng gian khổ của dân ta. Nhưng giờ đây người ta buộc phải nghĩ thêm: thói quen là một cái gì đáng sợ. Và khi một thói quen lại gắn bó với công cuộc kiếm sống vốn rất thiêng liêng, thì nó lại càng đáng sợ hơn! Dù biết rằng có hại cho cuộc sống, người ta cũng không dễ thay đổi. Ai mà biết được còn biết bao nhiêu nếp sống quen thuộc mà tai hại như vậy đang tồn đọng ở các làng quê?!

Tiếng loa rè

Quan họ với tôi là một món ăn tinh thần, có thể “ăn” mãi không chán. Tôi thường tự nhủ có họa là gỗ đá thì người ta mới không thích những bài dân ca, trong đó có quan họ.

Ấy thế mà một lần về Hội Lim, tôi đã phát sợ với những Người ơi người ở đừng về, Ngồi tựa mạn thuyền, Bèo dạt mây trôi…

Có gì đâu, hôm ấy, những giọng ca quan họ tuyệt vời được phát ra từ một cái loa rè.

Và một điều tai vạ nữa với những người hôm ấy về dự hội là cùng lúc trong không trung, các làn điệu tuôn ra hỗn độn, bài nọ lẫn với bài kia. Bởi ngoài mấy cái loa chung của ban tổ chức, còn rất nhiều loa lẻ khác. Của ông bán kem. Của bà hàng kẹo bột. Của cô hàng bún ốc… Người nào cũng một đài nhỏ, vặn hết cỡ. Cái thứ thức ăn tinh thần, mà lúc chín tới, vốn rất là ngon, giờ như một món cháo vữa, nuốt không nổi.

Vào những ngày xuân có bao nhiêu làng xã mở hội, thì bấy nhiêu nơi loa điện được mắc để gây thanh thế, và thu hút khách qua đường. Riêng cái chuyện chất lượng âm thanh các loa ra sao thì không bao giờ được để ý. Lại càng không ai để ý và tính chuyện quản lý những chiếc loa lẻ, lên tiếng ngay bên nồi canh riêu bốc khói, hoặc mẹt kẹo không ít ruồi bâu.

Cuối cùng, người đến dự hội chỉ còn có cách lắc đầu.

Nhưng tôi cũng biết chắc rằng, năm sau, giá có đi hội, thì vẫn được nghe những chiếc loa ấy. Chuyện này vốn ít được mọi người cho là đáng nói, mỗi khi bàn về lễ hội.

Chữ “chân quê” cũng có ba bảy đường

Xuân hè 1972, trong dịp tham dự chiến dịch Quảng Trị, tôi có dịp đi qua nhiều vùng nông thôn tỉnh này và sớm nảy ra một nhận xét nhỏ: sao mà dân ở đây mê đồ nhựa đến thế: rổ rá nhựa, đồ chơi trẻ con bằng nhựa, cho đến cành hoa mang bày trên bàn thờ tổ tiên cũng bằng nhựa tuốt. Với thói quen của một người lớn lên ở đồng bằng sông Hồng, tự cho mình là chân quê mộc mạc tuy không nói ra, nhưng tôi thầm nghĩ hình như cái vùng quê trong này mất gốc nhanh quá(!)

Nhắc lại chuyện này hôm nay, cũng là một dịp để cười với nhau cho vui. Vì cái lối sống mà tôi nghĩ là không được chân quê cho lắm ấy, bây giờ như vết dầu loang, đâu mà chả thấy. Những đồ vật làm bằng tre mây – niềm tự hào của nhiều vùng quê – nay không còn giữ địa vị độc tôn như xưa. Dùng được cái gì bằng nhựa là người ta dùng, nơi nghèo còn dè dặt, nơi giàu có một chút, đồ lề trong nhà cũng xanh xanh đỏ đỏ y như Quảng Trị mà tôi từng tới. Ngoài chợ, các bà có bán bánh trái, thì cũng từ tốn đặt nó vào trong cái túi nhựa mỏng dính, chứ không phải lúc nào cũng quấn sơ sài bằng mảnh lá chuối khô như xưa. Ngày tết, các cụ chống gậy đi hội, người nghèo đến mấy cũng kiếm được đôi dép lê; có lẩn mẩn hỏi rằng ở đây còn ai đi lại dép cổ ngày xưa (dép làm bằng mo cau và có sợi dây buộc vào cổ chân, phía trước chỉ cần xỏ một ngón chân là đủ), thì chỉ được đáp lại gọn lỏn:

– Gớm chết! Ai lại còn cổ lỗ đến thế!

Lại nhớ lại bài thơ Chân quê của Nguyễn Bính, với cái ý chủ đạo “van em em hãy giữ nguyên quê mùa” mà đi đâu cũng thấy có người nhắc. Thứ nhất giữ nguyên nếp sống xưa, bây giờ nhiều khi hóa bất tiện. Thứ hai, đôi khi lại là không kinh tế, nghĩa là tốn kém nữa. Yêu cầu của đồ dùng là phải rẻ mà lại bền, cái gì bền ắt rẻ. Rồi lại phải tiện dụng nữa, một vài cái rổ nhựa dễ được ưa chuộng hơn cái rổ tre, lý do là vì như thế, có phải vì dùng nó mà cuộc sống nông thôn thay đổi đi đâu?! Bài thơ của Nguyễn Bính rất hay, người ta sẽ còn đọc mãi, nó là lời cảnh tỉnh hữu ích cho những kẻ học đòi. Nhưng học đòi là một chuyện, mà làm cho cuộc sống ngày càng văn minh hiện đại là chuyện khác, không thể đánh lộn sòng mà nhập làm một.

LÀM NHƯ THẾ NÀO CHO CÓ HIỆU QUẢ?

Không được tính kỹ

Tôi viết những dòng này để nhận lỗi. Có những công việc sở dĩ người khác làm là do có sự cổ vũ của mình. Giờ đây người ấy đang lao đao khổ sở, làm sao mình sống bình yên cho được.

Nguyên vợ chồng tôi có quen gia đình anh T. Quê T. ở một vùng đất trung du, giá kể trồng cây ăn quả thì rất hợp. Nhưng ở quê T. xưa nay người ta không tính chuyện đó, mà gia đình T. cũng vậy, chỉ xoay vào làm ruộng. Cho đến cái ngày vợ chồng tôi thăm gia đình anh. Trong đầu đầy ắp những kiến thức do báo đài cung cấp, rằng phải chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, phải có nông sản hàng hóa…, bọn tôi ra sức khuyên T. mạnh dạn theo với sự chuyển hướng chung của cả vùng, đầu tư vào việc trồng cây ăn quả.

Và bây giờ thì tình cảnh của gia đình T. và dân trong vùng tóm lại trong một chữ: . Sản phẩm làm ra không nơi tiêu thụ. Giá rẻ, một cân nhãn mấy năm trước có khi lên đến hơn hai chục ngàn, nay chỉ lơ lửng dăm sáu ngàn. Mà người về cất hàng còn chê ỏng chê eo. Nhìn quả chín trên cây mà buồn. Và sau khi tính toán là lỗ vốn lớn, mọi người bàn nhau chỉ có cách quay về làm ruộng cho chắc ăn!

Trong khi đâu đâu cũng có phong trào trồng cây ăn quả thì các địa phương không tính chuyện xây nhà máy chế biến. Và thị trường thu hẹp. Và tư thương ép giá… Tôi biết có hàng lô lý do khiến cho tình thế các vùng cây ăn quả trở nên bi đát. Nhưng vượt lên trên một sự thất bại cụ thể, tôi nghĩ tới một sự đổ vỡ lớn hơn: từ nay, những người như T. không dám thay đổi nữa. Thôi, cứ theo kiểu cũ mà làm, chứ càng “quẫy” lắm càng sầy “vẩy”.

T. không trách gì tôi.

Nhưng tôi cứ cảm thấy mình có lỗi và thầm nói với mình: chẳng lẽ số phận chúng ta là cứ phải sống nghèo mãi?!

Đầu tư

Sau khi phản ánh tình hình sản xuất ở một địa phương, nhiều phóng viên phát thanh hoặc truyền hình thường kết thúc chương trình bằng một câu đại ý:

– Địa phương X… rất mong được đầu tư tiếp tục.

– Nếu được các cơ quan hữu trách quan tâm đầu tư, thì tình hình ở đây có thể…

Thú thực, nghe mãi cái câu đã thành công thức đó, tôi thấy hơi buồn. Mười nơi được nhắc nhở thì có đến chín nơi yêu cầu đầu tư, cấp trên biết lấy đâu ra? Sao không tính chuyện đóng góp, mà toàn lo rút ruột nhà nước như vậy? Đã thành cái dớp trong lối tuyên truyền của chúng ta là việc gì cũng chỉ nói mở đầu, còn kết thúc ra sao không ai cần biết. Trước khi kêu gọi những vụ đầu tư mới, sao không có những chương trình nhìn lại cho sòng phẳng những đợt đầu tư đã qua?

Tuy nhiên, vẫn xung quanh chuyện đầu tư, còn nhiều vấn đề đáng nói mà chưa được nói. Ấy là, chẳng hạn, nên đầu tư như thế nào, hiểu về đầu tư ra sao?

Trên báo Nông thôn ngày nay số 29, ra 22-7-1998, tôi đọc được đoạn tin ngắn kể rằng hành tỏi ở Gia Lương (Hà Bắc) đang bí đầu ra. Bí không phải vì không có thị trường mà “chẳng qua canh tác trên vùng đất bạc màu, chăm bón thiếu đồng bộ, nên củ tỏi ngày càng bé đi, không đạt yêu cầu xuất khẩu”. À ra thế! Lại nhớ mấy năm nay, năm nào cũng thấy đưa tin các viện khoa học mừng công, còn các loại danh hiệu tiến sĩ, phó tiến sĩ mọc lên như nấm, sao không thấy nơi nào giúp cho nông dân có được giống tỏi không bị thoái hóa? Hay là người ta không coi đấy là đầu tư cho nông nghiệp nên không chịu làm? Vâng, có một điều lạ, là đáng nhẽ phải hiểu hai chữ đầu tư, theo một nghĩa thật rộng rãi, thì ở ta, cả người đi đầu tư lẫn người nhận đầu tư đều quy chuyện này về một nghĩa duy nhất là tiền. Mà cách hiểu ấy, thường được các cấp trung gian ủng hộ. Ngẫm cho kỹ thì thấy: Khi tiền chạy, nhiều người có lợi lắm. Tỉnh có thể cấu ra một ít, huyện có thể xắn vào một ít, đến nông dân còn được bao nhiêu không cần biết. Có lẽ cái chuyện đầu tư cứ ì ạch mãi ở một nghĩa duy nhất, lý do sâu xa còn là ở chỗ đó!

Chuyện quanh mấy mớ cá rẻ

Chị T. cơ quan tôi quê ở một huyện ven biển Nam Định. Từ hồi còn chiến tranh, có cái lệ là khi nào từ quê lên, T. cũng mua hộ anh chị em trong cơ quan một ít hải sản. Thường là hàng khô. Nhưng cũng có khi có cả những cân tôm, cân mực còn tươi. Mặc dù từ lâu đã biết rằng cái cảnh ngả ngay ra giữa cơ quan mà chia tôm chia cá trông không đàng hoàng cho lắm, song được cái hàng mua tận gốc, giá rẻ, nên ai cũng thích. Quen đi thành lệ. Mỗi lần thấy T. về quê là mọi người lại chuẩn bị tiền để lấy hàng.

Nhưng đến lần T. về quê gần đây, thì cái hy vọng ấy tắt ngóm.

T kể: “Không thể mua nổi nữa. Có một tay buôn đã thâu tất. Bao nhiêu của ngon họ mua về cho các khách sạn trên tỉnh và cả ở Hà Nội. Ngay đến dân sở tại cũng chỉ còn tôm vụn, cá tép, mà họ đã thải ra”.

Vừa nghe đến đó, mấy bà sồn sồn nổi máu thắc mắc:

– Thì thì còn ra cái quái gì nữa! Bất công! Vô lý!

Nhưng cũng có người ra vẻ hiểu biết giảng giải:

– Thời buổi kinh tế thị trường người ta vận chuyển đi xa như thế cho hàng hóa lưu thông. Nơi nào sản xuất thì hàng rẻ thối ra, người ở xa tới không phải dân buôn cũng khuân một ít về chia nhau hoặc bán lại – đấy là những lối làm ăn ngày xưa. Giờ đây phải có cách khác.

Ờ, nghe cũng có lý quá! Mọi người chưng hửng, có bà còn thoáng một chút ngượng nghịu về cái sự tham rẻ của mình. Chỉ riêng có một anh túc tắc bổ sung thêm:

– Cũng được, chẳng tiếc mớ cá rẻ như chẳng tiếc thời bao cấp làm gì. Chỉ sợ, cái gọi là lối làm ăn mới, chẳng mấy chốc biến chất, có tư thương hoặc có công ty nhà nước về đấy, nhưng lại chỉ cốt kiếm lợi, tư thương thì móc với chính quyền rồi dìm giá, khiến cho người có hàng bị bán rẻ. Người tiêu dùng không có cái để mua hoặc chỉ có cách ăn giá cao, cái đó mới thực phiền phức. Không biết cá ở quê bà T. đã rơi vào tình trạng ấy chưa, nhưng lúa ở nơi này, hoa quả ở nơi kia, đã bị khốn khổ đủ đường. Tóm lại, lối làm ăn cũ đã chán, mà cái mới cũng chẳng ra gì, thế mới ngao ngán.

Khôn và dại

– Nói khí vô phép, nuôi được con gà, con lợn, cấy được tạ thóc mới khó, chứ có hàng rồi, tôi bán cho ai chẳng được? Mà khi đã cầm đồng tiền trong tay – có thím anh biết đấy – Tôi mua cái gì giá cũng sát sàn sạt, đố anh nào bắt bí nổi!

Tôi không nhớ rõ là ai, nhưng đúng là một trong số rất nhiều ông chú họ của tôi ở quê đã nói như vậy. Và có một thời gian dài, cả tôi lẫn các ông đều tin chắc như đinh đóng cột rằng để đời sống nông thôn được cải thiện, phải giúp nhau sản xuất là chính, mọi chuyện còn lại, tự mọi người lo lấy (cho đến cả trên mặt báo, xưa nay, giống má, cấy hái, thuốc trừ sâu… vẫn là đầu vị, chứ mấy khi nói tới chuyện mua bán).

Thế rồi trong thực tế thì sao?

Phải nói là nếu để ý, sẽ thấy hàng ngày có bao nhiêu việc liên quan đến đồng tiền, đã khiến chúng ta vui đó lại buồn ngay đó. Vặt vãnh như khi có đàn gà nhép, buồng chuối xanh mang ra chợ ngồi cả buổi không ai hỏi lại mang về. Lớn lao như chuyện để ra được mấy tạ thóc, phơi khô quạt sạch, không bán được vì bị tư thương ép giá. Chuyện ham rẻ, mua phải miếng thịt ôi, về ăn cả nhà đau bụng là chuyện thời nào cũng có, chả nói làm gì. Khốn khổ hơn là ham rẻ, mua mấy thứ hàng công nghiệp, cái xe, cái đài, về dùng không được như ý, song đâu có phải mỗi chốc đã vứt đi ngay được. Trong thời buổi hàng hóa giao lưu ồ ạt, chính cái việc sử dụng đồng tiền là điều các gia đình nông dân cần được hỗ trợ. Có thể nói bà con cần phải học nữa. Nhưng xưa nay chỉ biết đoán mò nghe lỏm, chứ đã có ai mách bảo cho rành mạch – lúc mà những ông chú tôi biết được cái dại cái hớ của mình cũng là lúc từng người đã khôn lên được tí chút.

CÒN RẤT NẶNG CĂN

Cái sân và con đường

Khi nhớ lại cái làng X ở Thạch Thất, Sơn Tây, nơi đơn vị đã đóng quân mấy năm hồi chiến tranh, anh em tôi thường bảo nhau là bẩn nhất đấy mà cũng sạch nhất đấy – bẩn đến ghê người, mà cũng sạch đến quá quắt. Tức là tự trong nếp ăn ở của làng đã có bao điều trái nghịch như nông thôn ta đang tồn tại bao nhiêu điều mâu thuẫn, trái nghịch.

Làng X vốn thuộc loại trù phú nên ngay từ những năm chiến tranh đã san sát mái ngói. Nhiều nhà sân rộng, lại chọn được thứ gạch lá nem nung già lát thật đều, ngày mưa sân cứ hiện ra đỏ au và bóng loáng.

Có điều nên nhớ là vào những ngày ấy mà có dịp tới nhà ai, anh phải cẩn thận. Khôn hồn hãy để ngoài cổng đôi dép vừa đi qua con đường làng lầy lội, tạm đi chân đất ra chỗ vại nước rửa chân, rồi hãy vào nhà. Còn nếu vô tâm, để đôi dép lấm bê lấm bết kéo thành vết ngang sân, là lập tức phải chuốc lấy sự khó chịu. Để anh ngồi đấy, chủ nhà hãy đi cọ lại sân đã, rồi mới vào trò chuyện với anh sau.

Ai cũng lo giữ gìn như thế nên nhiều khi đứng trong nhà nhìn ra ngoài sân, cứ thấy sướng cả mắt.

Nhưng đứng từ sân mà nhìn ra đường làng, thì cái sướng ấy biến mất. Đường rộng nhưng lầy lội, đã đủ khổ. Song lại còn một nỗi khổ nữa là nhiều khi quét dọn sân thềm xong, có cái gì bẩn thỉu người ta hất luôn ra đường. Đã bẩn cho nó bẩn một thể, cũng như đã sạch thì phải sạch đến cùng – nhiều người nghĩ bụng như vậy!

Ba chục năm trôi qua, tôi không có dịp trở lại X nên không hiểu giờ đây nó đã thay đổi ra sao. Có thể là ở X giờ đây đường làng đã được đổ bê tông nên thoát hẳn cảnh lầy lội và vệ sinh cũng khá hơn. Song không hiểu sao tôi vẫn bị mấy cái sân và con đường làng ám ảnh. Ý tôi muốn nói tới cái tinh thần chi phối cuộc sống nói chung mà mẩu chuyện trên là ví dụ. Gần đây, chúng ta hay nói tới tính cộng đồng, đến tình làng nghĩa xóm. Nhưng hình như trên nhiều phương diện, đời sống nông thôn vẫn chưa ra khỏi cái tình trạng “đèn nhà ai nhà ấy rạng”. Và nhiều khi do cần mưu lợi cho nhà mình, người ta có cảm thấy phải làm hại tới nhà khác, làm hại tới cái chung thì sau một phút phân vân, rồi cũng lạy giời lạy phật nhắm mắt nhắm mũi làm vậy (!) Thành thử, sạch đấy mà cũng bẩn đấy, bao dung nhau đấy mà cũng đố kỵ nhau đấy, lo cho cái chung chỉ là bề ngoài, lo cho riêng mình mới là phần gan ruột sâu xa – không phải trái nghịch, mâu thuẫn thì còn là gì nữa?

Xe đỗ tàu đỗ

Hồi đang thời chiến, tôi nhớ có chuyện một đoàn tàu hỏa đang đi thì dừng lại giữa đường (tất nhiên không phải ga) để người lái tàu xuống đường mua mấy bìa đậu. Chả là không mua thì tem phiếu hết hạn! Linh động, tranh thủ… hồi ấy mọi người nói vậy.

Cuộc sống chiến tranh vốn căng thẳng nhưng có lúc lại lề mề, chậm chạp, và việc dừng cả đoàn tàu để làm việc riêng như thế thuộc về cái nếp sống tùy tiện, mà người ta phải thích ứng, khi sống trong thời chiến.

Còn đây, chuyện tùy tiện của thời nay, tuy không quá đáng tới mức buồn cười như chuyện hôm qua, nhưng lại phổ biến hơn. Ngay giữa đường phố Hà Nội xe cộ đông như mắc cửi, một chiếc xe khách to lù lù đang chạy bon bon bỗng dừng ngay lại. Tưởng xe hỏng! Hóa ra có một hành khách bên đường vẫy tay muốn lên. Thế là xe đỗ, phụ xe xuống, đun bằng được cả người lẫn gánh gồng lên xe rồi tỏ ý hỉ hả lắm.

Vui lòng khách lên, thì đồng thời cũng phải lo mát dạ khách xuống: Ai đi xe, muốn xuống chỗ nào không cần tới bến, chỉ cần đập tay ra hiệu vài cái, thế là đường đang đông đúc đến đâu cũng kệ, nhà xe cứ ưu tiên phục vụ thượng đế của mình cái đã.

Có thể bảo cái nếp sống tùy tiện này là di lụy của lối làm ăn tiểu nông lạc hậu và một phần là do những rơi rớt có từ thời chiến. Thế nhưng lạ nhất là có người ra điều hiểu biết lắm, lại gật gù giải thích:

– Kinh tế thị trường có khác. Đặc điểm của lối làm ăn trong thời buổi bây giờ là phải tranh thủ bán hàng và linh động tìm ra mọi phương thức hoạt động hữu hiệu (Lại tranh thủ linh động!)

Đã lý sự với nhau như thế tức là người ta không coi đây là một việc bất đắc dĩ phải làm (do thời chiến buộc vậy), mà xem như một việc thức thời, một sáng kiến đáng khen thưởng. Thảo nào mà sự tùy tiện ngày một lan tràn, đại khái như tùy tiện cho phép phá rừng, tùy tiện cấp đất, tùy tiện giảm án cho kẻ có tội, tùy tiện mua bán bằng cấp… Rồi đến khi có người phát hiện làm thế không được thì lại cười trừ với nhau cả một lượt.

Đâu phải điều đáng tự hào?

Đây đó, chúng ta thường chỉ nghe nói người đi bộ hoặc xe đạp ở nông thôn ra khổ vì cánh ô tô, xe máy ngoài thành phố mà chưa từng được nghe lời than thở ngược lại. Song chỉ cần có trí tưởng tượng chút thôi, thì dù không phải dân Hà Nội, người ta vẫn hình dung ra đầy đủ cái sự trớ trêu mà dân thành phố phải chịu. Đường đông, mọi phương tiện thô sơ cũng như cơ giới cùng nhau chen lấn, vốn đã thật khổ. Đến quãng đường rộng, lại mấy cái xe thồ giăng thành hàng ngang, có muốn phóng nhanh cho kịp công việc cũng phải dừng ngay lại, ôi thôi là khó chịu. Đâm vào không được. Mà nhường mãi, lựa nhau mãi thì bực. Nhất là qua cái nhìn, qua nét mặt dáng điệu nhận ra rằng không phải “đối tượng” kia không biết thế là đi sai luật, là nguy hiểm, song cứ tìm cách thách thức xem sao, mới lại càng bực. Trong việc một cái xe thồ kềnh càng cản đường được một chiếc ô tô sang trọng, có điều gì đó rất thú vị mà người ta không giấu được. Còn lý sự ấy ư, đủ lắm! Các anh ở Hà Nội dửng mỡ quen phóng xe nhanh hãy đợi đấy! Đường nhà nước, tôi cứ đi. Ừ, tôi sai đấy, nhưng cứ thử đâm vào tôi xem rồi các anh sẽ biết tay tôi v.v… và v.v…

Đã Chí Phèo đến thế thì dân thành phố chúng em đến lạy cả nón, còn dám ho he gì nữa!

Nhưng sau những lần bị xe thô sơ nghênh ngang bắt nạt như thế, quả thật, cái hình ảnh đẹp đẽ về con người nông thôn mộc mạc biết điều trong tôi, bị hoen ố hẳn. Hàng năm, có dịp về quê, chúng tôi bao giờ cũng phải nhắc con cái ý tứ, không phóng xe nhanh hoặc cười nói ầm ĩ, gặp bà con trong làng phải chào, không có họ hàng cũng chào, cho nó ra tình làng nghĩa xóm. Các cụ đã bảo “Đất có lề, quê có thói”. Vậy thành phố không được quyền có lịch có lề, có phép tắc riêng trong mọi sự quan hệ hay sao? Việc một hai chiếc xe thô sơ lấn chiếm đường phố, buộc hàng loạt xe cơ giới phải chậm rãi thủng thẳng chờ mình chẳng những là sai luật mà còn là bất cận nhân tình, lẽ nào có thể xem là chuyện đáng tự hào, mà cười với nhau cho được.

CHUYỆN ĂN CHUYỆN UỐNG

Lọ hoa tươi và bát nước vối

Có dịp theo nhà văn Tô Hoài đi công tác ở một số địa phương, tôi nhận ra một thói quen của ông là vào bất cứ đâu, các ban phòng trên tỉnh trên huyện hay trụ sở ủy ban xã, bao giờ ông cũng chú ý đến cái lọ hoa. Và kể độ mười lần thì đến bảy tám lần, ông đều rút ra một nhận xét giống nhau:

– Lạ thật, nước mình đầy hoa tươi mà đi đâu cũng thấy cắm hoa giả. Hoa bằng giấy, bằng vải hay bằng những gì gì nữa, thì theo tôi, nó vẫn không đẹp bằng hoa thật. Khốn khổ, ở nước người ta tuyết giá không trồng được hoa mà trồng ở nhà kính thì tốn kém, nên mới phải dùng hoa giả. Chứ ở xứ mình, khó gì mà không kiếm hoa thật nhỉ?

Câu chuyện của Tô Hoài gợi lên trong tôi những sự liên tưởng, do đó, sự tiếc nuối tương tự.

Chẳng hạn, gần đây, trong những chuyến công tác ở các tỉnh quanh Hà Nội, cũng như những vùng khá xa, dừng lại bên đường uống nước, tôi nhận thấy đâu đâu cũng coca-cola, pepsi, 7up với lại hàng lô thứ nước xanh xanh đỏ đỏ khác. Gọi ấm nước trà, nghe chừng chủ quán không thích lắm, miễn cưỡng mà rót, có nơi bảo không có. Đến như chè tươi lại càng ít, nước vối tuyệt nhiên không đâu bán. Lại nhớ một số khách du lịch phương Tây sang ta bảo nhỏ: “Nếu thích các cao ốc vài ba chục tầng, với lại các thứ tiện nghi hiện đại, tôi đến Băng Cốc, Xingapo chứ đến Việt Nam làm gì? Vậy mà có ít cảnh quan đơn sơ, thanh lịch, sao các bạn bỏ hoang để chạy theo người ta”. Hóa ra, cái bệnh của nhiều người làm du lịch thời nay hình như cũng chung nguồn gốc với mấy bà hàng nước ven đường?! Đã đành ai cũng biết là bán thứ hàng đắt tiền thì lời lãi có khá hơn. Song chẳng nhẽ có thể coi đấy là nhân tố duy nhất quy định cách thức chúng ta tiếp xúc và đối đãi với nhau?

Cỗ ăn cỗ để

Quả thật lúc đầu, đọc cái phóng sự đó trên báo, tôi chỉ bật cười và thầm nghĩ bà con mình giỏi thích ứng thật. Nhưng lúc rỗi, ngồi nghĩ lại thì thấy buồn buồn, như là có phần đau xót.

Ấy là một đoạn phóng sự, miêu tả bà con ở một số nơi đến với các đám hiếu hỷ trong làng trong xóm. Đại khái là hết đoạn giao đãi, chia buồn hoặc chúc mừng, lập tức không thấy một bóng đàn ông. Mà quanh cái mâm cỗ, chỉ rặt đàn bà, từ các mẹ, các chị dẫu một hai con trở lên cho tới các bà cao tuổi. Và gọi là ăn cỗ (cỗ đám ma, cỗ cưới) song họ chỉ xì xụp húp ít nước và các món sắp tan thành nước. Còn cái phần thịt thà giò chả, những món xào ngon lành thơm tho thì được xẻ đều vào các túi ni lông để mọi người mang về. Nhà có đám bát đĩa sạch như chùi; còn nhà không có đám, trẻ con lại ran rỉnh như ngày tết.

Không cần khó khăn lắm, cũng có thể đoán ra cái cách “bảo nhau” cực kỳ thông minh này tố cáo một sự thật:

Tình trạng cỗ bàn hiếu hỷ ở nông thôn hiện nay đã trở nên quá tải, quá sức chịu đựng với nhiều gia đình.

Nhiều người thấy nó là không hợp lý.

Song ở trong làng trong xóm, một thế lực tự phát vẫn cuốn người ta đi, không ai, không gia đình nào đủ sức chống lại.

Trong khi nhắm mắt làm theo, người ta chỉ còn cố vớt vát để cái việc buộc phải làm (là đưa phong bì) có được một chút hiệu quả thiết thực.

Rút lại, trước mắt chúng ta là một trạng thái dang dở, cái dụng ý tốt đẹp là ăn với nhau bữa cơm để cùng chia vui (hoặc chia buồn) biến thành hình thức giả tạo. Chỉ có điều chừng nào mà xã hội chưa tìm ra cách tổ chức những sinh hoạt hiếu hỷ này cho hợp lý, thì tình trạng dang dở giả tạo ấy vẫn còn tiếp tục, và có thể còn nảy sinh nhiều biến tướng kỳ cục.

Bữa cơm nhớ đời

Sự nghiêm ngặt của những nghi thức cổ truyền trong ngày tết bắt đầu ngay từ các món ăn mà người ta chuẩn bị. Từ ngàn xưa đến nay, mâm cơm cúng gia tiên của người Việt thường vẫn bao gồm mấy món “cơ bản”: bánh chưng, xôi, thịt gà, măng, miến, cá kho v.v… Hầu như suốt mấy ngày tết, nhà nào cũng có những món tương tự, thành thử không phải đến bây giờ mọi thứ thừa thãi, mà ngay từ hồi đời sống còn khó khăn (nói nôm na: đôi khi đói ăn) nhiều người vẫn cảm thấy không khỏi ngây ngấy sờ sợ khi nghĩ đến bữa ăn ngày tết.

Vậy mà thay đổi thì ngại!

Phải trong những dịp ngẫu nhiên bột phát, người ta mới dám đi chệch khuôn phép trong một hai… bữa, để rồi, cứ thế nhớ đời.

Sau đây là một kỷ niệm nho nhỏ liên quan đến chuyện bữa ăn ngày tết mà đến nay, tôi vẫn thấy thú vị:

Khoảng những năm 66-67, các đơn vị bộ đội được lệnh rời doanh trại ra đóng ở nhà dân. Khi về ăn tết ở một làng quê, một hôm bọn tôi được bác chủ nhà cao hứng dặn dò:

– Thể nào các chú cũng phải ăn với gia đình một bữa cơm. Mà này, thích món gì cứ nói, để tôi bảo mẹ cháu làm, chứ các món thông thường ngày tết chính tôi cũng chán lắm.

Anh A, bạn tôi, vốn dân Hà Nội chính cống, liền nhập cuộc ngay:

– Thế ông cho phép tôi đặt hàng nhé.

– Nem công chả phượng chắc?

– Không, chỉ đơn giản thôi: một niêu cơm nóng vừa chín tới, đĩa trứng tráng, bát canh rau cải nấu cá rô, thái vào mấy nhát gừng. Với cút rượu nữa. Trưa mùng ba ăn. Chỉ nhớ là hôm ấy bữa sáng, ông ăn qua loa thôi, đừng ăn no quá, bữa trưa mất ngon. Bác chủ nhà đã “trót dại” hứa trước, đành dặn vợ con làm đúng như thế. Bữa cơm trưa mùng ba chỉ có ba người, bác ta và hai chúng tôi. Nhưng đến mấy năm sau, nhắc đến bữa cơm ngày tết, bác còn xuýt xoa khen ngon, dù chẳng bao giờ bác dám “tái bản”, tức làm một bữa tương tự.

Về phần mình, tôi cũng chả khá gì hơn. Từ ngày có gia đình, đã một đôi lần, tôi muốn đặt hàng bà xã, để bà, trong những ngày tết, dọn cho một bữa thực đơn khác đi, ăn lấy ngon. Nhưng vừa dóng lên, bà đã gạt phắt, bảo rằng tết nhất ai lại thế, họ hàng làng xóm mà biết, người ta cười cho. Thế là thôi, bữa ăn nọ với tôi trở thành kỷ niệm duy nhất về một sự phá cách hiếm hoi.

Tôi không nói rằng có thể vứt bỏ hết mọi nghi thức trong ngày lễ cổ truyền.

Tôi chỉ muốn chúng ta cùng xét cho kỹ, cái gì châm chước được thì hãy nới tay với nhau một chút.

Rộng hơn câu chuyện bữa ăn ngày tết, là những con đường mòn trong làm ăn tính toán chúng cũng nhiều vô kể. Những thói quen cổ hủ ấy trói chân trói tay chúng ta, mà không đến nỗi như một câu Kiều: Gỡ ra cho thoát còn gì là thân, nhưng thực sự là khó gỡ.

Cũng là một sự mất mát…

Nhân bàn về chất chân quê trong thơ Nguyễn Bính trước 1945, nhà phê bình văn học Hoài Thanh có viết trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941 rằng ông thường khó chịu, khi vào một ngôi chùa, thấy có những ngọn đèn điện trên bàn thờ Phật. Có lẽ ông muốn lưu ý là có những hiện tượng tự nó không sao, nhưng để cạnh nhau, lại gây phản cảm. Cái lối lắp ghép lố lăng ấy chính là biểu hiện của sự kém cỏi trong văn hóa sống.

Theo nghĩa đen của nó, thì câu chuyện của Hoài Thanh giờ đã trở nên cổ lỗ: vào những năm này, điện đã đến với nhiều ngôi chùa, và ngự cả trên bàn thờ. Có điều nay là lúc lại đang nảy sinh trong sự lắp ghép tùy tiện vô lối khác, nó khiến cho người ta cảm thấy là trong nhận xét của nhà phê bình vẫn có một hạt nhân hợp lý không thể phủ nhận.

Từ lâu, vào những chiều hè, tôi có thói quen là mỗi khi có việc đạp xe lên khu vực đường Thanh Niên của Hà Nội, thường bớt ít phút nán lại ngắm chùa Trấn Quốc một lúc. Giữa cảnh trời nước, ngôi chùa với màu ngói đỏ đơn sơ hiện lên thật gợi cảm. Nhưng độ dăm năm gần đây, thì không dám ngắm cảnh theo kiểu đó nữa. Phần vì đường Thanh Niên, vào các buổi chiều, thường đông nghịt xe pháo. Nhưng có một điều phải thú thực đáng sợ hơn: ấy là sát gần chùa ngay phía bên kia đường nhựa là quán bánh tôm. Ngày hè, đứng ở bên hồ nhìn vào chùa, người vãn cảnh lúc nào mũi cũng phải ngửi cái mùi dầu rán rất trần tục. Tôi đâm nản hẳn, không còn đủ can đảm để tận hưởng một trong những vẻ đẹp lâu đời của chốn ngàn năm văn vật.

Điều đáng nói ở đây, là bề ngoài, di tích dường như không bị xâm phạm gì cả. Nhân danh một yêu cầu rất chính đáng là ăn uống, người ta chỉ làm cho ngôi chùa mất đi vẻ thuần khiết mà nó vốn có. Nhưng tôi cho rằng đó đã là một sự mất mát quá lớn, về mặt văn hóa.

…VÀ CHUYỆN NƠI Ở

Kiểu nhà đơn điệu mà lộn xộn

Nói ra thì hơi khó nghe, nhưng gần đây, cứ mỗi lần được tin ở quê có thêm nhiều ngôi nhà mới xây, là bên cạnh nỗi mừng, ở tôi không khỏi có thêm một chút lo lo.

Mừng vì quê hương mà giàu có lên thì mình dù ở nơi xa, cũng thấy mát ruột.

Song lo là vì làng xóm càng xây dựng trông lại càng lộn xộn. Nói riêng một chuyện kiểu nhà, có nhiều gia đình nhập ở đâu về những “mô đen” kỳ cục, thoạt trông đã chướng, về sau càng nhìn càng thấy xấu. Nhưng lúc biết thế thì đã muộn. Toàn bê tông cả, với lại của một đống tiền, có phải đập ngay được đâu!

… Trong số kỷ niệm vui buồn từ những năm chống Mỹ, tôi còn nhớ mãi cái lần đầu 1966, ăn tết ở một xã nọ trên Lục Nam, Hà Bắc. Ngày xuân nên mặc dầu thời chiến các cô con gái trong làng cũng có diện hơn ngày thường. Nhưng lại diện giống y như nhau, cả gầy lẫn béo, cả thấp lẫn cao, cô nào cũng áo bông trần, cổ quàng cái khăn ny-lông màu nõn chuối.

Sự đơn điệu chắc chắn là tẻ nhạt rồi, bây giờ ai cũng biết thế, nhắc lại một nét của thời đã qua để biết, chứ còn có cách nào khác, hơn là nở một nụ cười độ lượng.

Nhưng lộn xộn, tùy tiện, mỗi thành viên mỗi bộ phận theo một kiểu riêng, như cánh vài nhà có máu mặt ở quê tôi đang xây – từ đó dẫn tới một khung cảnh chung luộm thuộm tạp nhạp – thì cũng là gây phản cảm theo một cách khác. Ấy, cái khó là ở chỗ ấy. Tự xét thấy rằng mình không phải là quá cầu kỳ, hoặc khó khăn xét nét, nhưng tôi vẫn cứ ước ao làm sao ở quê hương từng nhà đã đẹp, mà gộp chung cả lại, cả làng cả xóm nhìn vẫn thấy đẹp. Có thể là tôi chưa đi được nhiều, song hình như những nơi được thế, hiện đang quá hiếm!

Một căn phòng nhỏ

Vốn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, vợ tôi thường tỏ ra thích thú khi thỉnh thoảng được theo chồng con về quê, ngoài chuyện tình cảm nó cũng là những dịp tiếp xúc với thiên nhiên để rũ bớt trăm thứ bực bội của người phải sống ở đô thị. Chỉ có điều, mỗi lần về, cô vẫn không khỏi có chút ngần ngại, và quay ra thì cả người mệt rũ. Không phải cô sợ xa sợ bẩn gì cả. Mà, giấu mãi không được, về sau cô thú thực rằng một ngày về quê thường căng thẳng quá, cứ phải luôn miệng trò chuyện từ lúc về tới lúc đi, giá có mệt cũng không có chỗ để nghỉ. Căn nhà cũ của ông anh tôi cũng có một chái buồng, song suốt năm suốt tháng đóng cửa im ỉm, lại chồng chất quá nhiều thứ lưu cữu thành thử nó giống như một cái kho hơn là cái buồng, kể cả người nhà cũng không ai tính chuyện vào nghỉ, nữa là khách Hà Nội. Bởi vậy, theo lời vợ tôi kể, cô thấy nhẹ cả người khi nghe ông anh bà chị ở quê thông báo là nhà sẽ sửa sang cho khang trang, sạch sẽ. Nhất là, vẫn diện tích cũ thôi, nhưng nhà không để thông thống một gian thật rộng, mà hai đầu là hai phòng nhỏ, phòng nào cũng sáng sủa song lại kín đáo, giá đang trò chuyện mà thấy mệt có thể xin phép vào ngả lưng một lúc. Nhờ có mấy căn phòng nhỏ, tình cảm của người con gái thủ đô với quê chồng tự nhiên trở nên thắm thiết hơn hẳn.

Theo chỗ tôi biết, lối cải tạo nhà cửa như ông anh tôi đã làm, hiện nay chưa phải phổ biến. Song điều đáng nói là người ta không làm không phải vì không có tiền, mà trong một số trường hợp, là không vượt qua được những thói quen cố hữu, đại khái cho rằng nông thôn có cách sống riêng, không thể học đòi theo lối thành thị như thế được! Kể cũng lạ – vợ chồng tôi bảo nhau – học theo thành thị dùng điện đài, chạy xe máy, thì thấy tự nhiên, mà chữa lại cái nhà cho tiện dụng thì lại ngần ngại, đã rõ là những thay đổi ở nông thôn cần được hướng dẫn bởi một cách nhìn nhất quán mới tránh khỏi chắp vá tùy tiện.

Phụ trở thành chính

Làm xong cái nhà, chưa kịp chính thức làm lễ ăn mừng tân gia, cháu gái con bà chị tôi đã nhắn sang chơi, gọi là khoe với ông cậu cái tổ ấm mới “bóc tem”. Vừa đến nơi, nó đã dẫn tôi vào bếp với lại phòng tắm để khoe nào bệ xí ra sao, vòi hoa sen ra sao… Thấy tôi cứ ngớ ra, nó giảng:

– Cậu phải biết chứ, với một cái nhà để ở bây giờ, công trình phụ thật ra phải gọi là công trình chính mới đúng. Nó giúp cho mình tiện lợi hơn trong sinh hoạt. Công trình phụ mà vớ vẩn thì phòng khách có đẹp đến mấy cũng vứt đi!

Tôi nghe cũng thấy bùi tai và lại chợt nhớ tới những cái làng mình đã đi qua.

So với những năm chiến tranh thì bây giờ quê ta chỗ nào chẳng tấp nập xây dựng. Song nói cho đúng ra, làm được cái nhà đẹp đã khó, qui hoạch được một cái làng cho khang trang hợp lý lại càng khó. Có một hồi, đi đâu cũng thấy mái bằng, nhà như cái hộp. Lại một hồi đi đâu cũng thấy sân thượng có hàng lan can bụng chửa. Nhưng chỉ một hai năm là chán, không gì cũ nhanh bằng cái mới! Riêng về mặt kiến trúc mà xét, quê ta còn phải đi một chặng đường dài, chắc mới tới một trạng thái ổn định.

Bởi vậy chúng tôi bảo nhau: đến một vùng quê, trước hết hãy xem các công trình phụ, tức là giếng ăn, giếng giặt ra sao, cống rãnh thoát nước có hợp vệ sinh không. Ăn ở có sạch sẽ thì làm ăn mới mở mày mở mặt lên được.

Công trình phụ – cũng tức là những chuyện lâu nay bị coi là vặt vãnh – đang trở nên công trình chính, quyết định bộ mặt của xóm làng. Y như ở nhà cháu tôi vậy.

Tân trang mộ ông cha

“Đừng lấy mụn gấm vá lên tấm áo nâu sồng” là một trong những câu danh ngôn tôi được nghe từ hồi đi học tiểu học, và trong đời tôi, nó đã nhiều lần ứng nghiệm. Tuy nhiên, thật chưa bao giờ thấm thía bằng cái lần mới đây về quê thanh minh.

Tha ma làng (giờ gọi là nghĩa trang) là một thửa đất cao, ngay rìa xóm trên.

Làng nghèo, người sống đã chật chội, nên người chết cũng tùng tiệm lắm.

Nhưng tha ma làng tôi, xem ra vẫn có một vẻ đẹp riêng. Các ngôi mộ xây đã lâu, rêu phong, dầu dãi, khiến cho khung cảnh chung thanh vắng, tĩnh mịch mà gợi nhiều suy nghĩ.

Cho đến dịp cuối năm ngoái.

Tự nhiên một nhà trong làng, đâu có bà con ở nước ngoài về thăm, bỏ tiền ra, tôn tạo một ngôi mộ khiến nó nổi lên thật… chói lọi. Nhìn kỹ chẳng ra kiểu cách gì. Chỉ được cái, nhờ mấy viên gạch tráng men xanh có, tím có, mà trông bóng lọng, khác hẳn các mộ chung quanh. Đúng là giữa tấm áo nâu, vá vào miếng gấm, chẳng những khung cảnh chung bị phá hoại, mà bản thân cái nơi yên nghỉ của người chết cũng không thể nói là đẹp. Ác một nỗi là nhiều người làng thấy hay hay. Đã có nhà đánh tiếng là nay mai sẽ bớt ăn bớt tiêu để xây lại mấy ngôi mộ cũ, với lối trang hoàng tương tự.

Trong các bài viết ngắn bàn về văn hóa, đã nhiều phen tôi gợi ý là bà con nông thôn nên trông vào cách sống của dân thành thị mà bỏ bớt những hủ tục trong ăn ở. May quá, lần này, tôi có một ví dụ để “nói xuôi còn có nói ngược”. Vâng, trong sự tiếp xúc với cái nơi đầy ánh sáng ấy, lại cũng có những nền nếp mà ta không bao giờ nên học. Không học xì-ke, ma túy, cờ bạc, đĩ điếm đã đành, mà cũng chẳng nên học cái lối rực của, xây những ngôi mộ theo kiểu lố lăng, khiến cho cái nghĩa trang trở thành nơi khoe giàu khoe sang. Học là dại!

Cây cối thưa thớt

Thuở nhỏ, thằng cháu tôi tên H. vốn thích theo các bác các chú về quê, và nay đã ngoài 20, nó vẫn thường được bố mẹ ủy quyền khi có mặt ở đám giỗ này, khi mừng đám cưới nọ. Thì sẵn xe máy, chỉ vèo một cái, độ tiếng đồng hồ là tới. Lần nào ở quê ra, nó cũng kể cho tôi nghe một vài nhận xét về cái quê gốc của tôi, một làng nghề nổi tiếng ở xứ Kinh Bắc. Nhưng chưa bao giờ, tôi thấy nó nêu ra một nhận xét kỳ cục, như cái lần mới đây:

– Cậu ạ, hóa ra nhà quê bây giờ nóng hơn cả Hà Nội.

– Mày nói gì lạ?

– Không có gì lạ, thưa cậu! Trưa nóng quá, người mệt rũ, mà không nhắm mắt ngủ được, ra ngồi vỉa hè, cháu mới để ý: Hóa ra bây giờ làng xóm cây cối thưa thớt quá. Có ít cây cũ thì chặt trụi đi, chưa kịp trồng lại. Cứ bảo làng xóm là ở sau lũy tre xanh, chứ bây giờ nhiều làng có lũy tre đâu! Trên đê nhìn xuống, chỉ thấy san sát mái ngói với lại mái bằng. Có mấy cái ao, cũng lấp hết cả, lấy đất xây nhà. Có chút gió đồng thổi vào, thì phải lách qua cả đống bê tông, cậu bảo không nóng sao được?

Có thể cái cách đánh giá của thằng cháu tôi “quê nóng hơn cả Hà Nội” có phần không được khách quan. Chẳng qua là ở Hà Nội, nóng quen đi rồi, còn khi về quê, hy vọng có chút gió mát lại không có, nên nó nói quá lên thế. Nhưng đằng sau cái quá đáng ấy, không phải không có một chút sự thực. Là trong giai đoạn bung ra làm ăn xây dựng hiện nay, một số làng xóm nông thôn đang mất đi sự hài hòa vốn có. Đặc biệt là cây cối, loại cây lưu niên, không được chú trọng vun trồng. Cấu trúc bền vững của làng xóm xưa bị phá tung ra, cảnh quan mới hình thành luôn luôn ở tình trạng dang dở, chắp vá. Nếu đúng như thế, thì đó chẳng phải chỉ là nỗi đau của người ở làng, mà còn là nỗi buồn của chúng tôi, những kẻ xa quê song bao giờ cũng nghĩ về quê như một miền đất thanh bình yên ả. Cái nóng ở quê bao giờ cũng khó chịu đựng hơn ở đô thị.

THÍCH ỨNG MỘT CÁCH KHÓ KHĂN

Chuyện về những ô-sin ra thành phố

Gần đây, trên tờ báo nọ, tôi được đọc một bài viết ngắn, đại ý than phiền là ở nhiều vùng quê, đám trẻ mới lớn (nhất là con gái) vừa bỏ học đã phải ra Hà Nội đỡ việc nhà cho các gia đình, thành ra chịu nhiều thiệt thòi. Ở cuối bài viết, tác giả nêu lên một đề nghị là nhà nước phải làm sao giúp đỡ để các em tiếp tục đi học, rồi có ngành nghề làm ăn ngay tại quê hương, chứ lên Hà Nội làm “ô-sin” như thế thì tội lắm.

Thoạt nghe tôi cũng thấy phải.

Ai mà chẳng một lần da đến ruột! Giá kể con cái nhà mình phải đi xa làm ăn, thì cũng còn đắn đo chán, cái thế không giữ được mới phải đành lòng cho con ra đi, chứ quanh quẩn ở nhà vẫn hơn.

Thế nhưng nghĩ cho kỹ, lại không hẳn như vậy. Trong tình hình hiện nay, nên xem đây là hiện tượng bình thường. Tại sao?

Câu chuyện tiếp tục đi học, nghe thì hay, nhưng đâu có được thực hiện. Mấy năm trước, việc học đơn giản và ít tốn kém, chỉ cần bảo con chăm chỉ là được. Nhưng nay không thế. Học hành đòi hỏi kỳ công theo đuổi, lại nhiều khoản chi phí đi kèm, không phải gia đình nào cũng chạy đủ.

Còn chuyện làm thêm nghề phụ? Nhưng ngày nay, ở nhiều vùng nông thôn, đến người lớn cũng thất nghiệp nữa là đám trẻ choai choai?!

Thế thì việc đổ ra đô thị kiếm ăn không có gì là quá kỳ cục. Trong thế bí, nó là cái lối thoát chẳng thơm tho danh giá gì, nhưng dẫu sao cũng vẫn là một lối thoát.

Có một chi tiết dễ khiến người ta mủi lòng khi nghe chuyện này: ấy là trẻ ra đô thị giúp việc như thế, tức là đi ở. Rồi học đòi, rồi hư hỏng, bao nhiêu tai vạ đe dọa.

Để cái chuyện sĩ diện hão huyền sang một bên, phải nhận nỗi lo trẻ hư là một nỗi lo chính đáng. Song ở đâu, mà trẻ chẳng hư được. Còn như nếu trẻ khôn ngoan, ra thành thị học được kinh nghiệm làm ăn, rồi quay về quê hương, tổ chức lại đời sống, thì càng hay chứ sao.

Câu chuyện về đám “ô sin” chỉ là một ví dụ về cách gỡ ra những khó khăn hiện thời đang chồng chất ở nông thôn. Tôi nhớ một câu danh ngôn đại ý: “Nghèo thì cơ cực, nhưng không biết nhẫn nhục để vượt qua cái nghèo lại là đáng trách”.

Cũng là một cách tự hạ giá!

Trong một cuốn sách dạy nghề bán hàng, tôi thấy người ta từng đưa ra một lời khuyên ngược đời: đừng nên mời mọc quá nhiều. Đôi khi sự mời mọc lại gây phản cảm ở người mua hàng.

Không rõ điều nghịch lý trên có đúng với mọi người khác, riêng với tôi, thì nó hoàn toàn chính xác: ra chợ, ai mời nhiều quá, tự nhiên cứ nghĩ chẳng qua hàng xấu hàng hỏng, người ta phải lo bán tống bán táng, nên mới muốn mình rước vội đi cho như vậy. Thành thử đang định mua cũng rụt cả lại, không muốn mua nữa.

Thế nhưng không ở đâu, cái cảnh mời mọc người ta mua hàng – ở đây là sức lao động – lại mang tính cách lộ liễu ép buộc như ở ngoài bến xe bến tàu. Xe chưa đỗ đã có hàng loạt người xô đến, người này chào, người kia mời, người khác nữa lôi kéo, những là “lên xe tôi đi”, “hàng ông anh đâu, đưa em xếp”, “nào đưa đây em gánh giúp” – khiến người xuống xe hoang mang, không biết rằng mình đang rơi vào một bát quái trận đồ nào đây, và biết tin ai bây giờ?

Trong cái việc mời chào quá mặn mà đến mức trở nên thắt buộc, những người bán hàng – ở đây là người bán sức lao động – tự bộc lộ thế yếu của mình: họ quá cần việc. Biết rằng việc không đủ cho đám đông nhiều người cùng làm, ở người ta hình thành một thói quen là vừa van vỉ khách, vừa tranh cướp với đồng nghiệp. Có biết đâu làm thế tức là khiến cho công việc – ít ra là trên phương diện tinh thần – bị hạ giá rõ rệt.

Không cần phải hỏi, cũng có thể tin chắc rằng một phần đáng kể trong đám người thường lượn lờ quanh những chiếc xe chở khách kia là những ngưòi nông dân quanh vùng. Cày cấy chỉ tạm đủ ăn, người ta phải xoay xỏa thêm để có đồng bạc tiêu pha trong gia đình. Lao động đơn giản, công việc lại bấp bênh, không có gì bảo đảm. Biết thế nhưng vẫn phải làm, tự phát mà làm. Giữa lao động tự phát với lao động có tổ chức thật đã khác nhau một trời một vực. Có điều làm sao để sắp xếp công việc cho hợp lý, thì không ai biết, và hình như không ai nghĩ tới nữa, nó là câu chuyện ở những đâu đâu xa vời lắm lắm.

Hiệu sách phố huyện

Những năm chiến tranh và mươi năm tiếp theo đó, sách còn quý và việc đi lùng sách là cả một trò vui. Bởi vậy, mỗi lần có dịp đi công tác ở các tỉnh, bọn tôi thường bảo nhau ghé qua các phố huyện. Ở đó, bên cạnh cửa hàng mậu dịch bách hóa lèo tèo vài mặt hàng nội địa, thường các hiệu sách nổi lên khá khang trang sạch đẹp. Do khối lượng sách in hồi đó khá lớn (mỗi cuốn thường từ dăm bảy ngàn bản trở lên) nên cả những sách dịch mà ở Hà Nội khó kiếm, người ta cũng mang về bán ở huyện, thành thử đối với chúng tôi, các cửa hàng sách phố huyện tự nhiên có thêm sức hút: biết đâu ghé qua đấy chẳng tìm thấy một hai cuốn sách quý mà dân sở tại chưa kịp mua? Và nhớ đến phố huyện là nhớ tới hiệu sách. (Nên nói thêm là chịu khó đi lùng như thế, song không phải bao giờ cũng có được sách hay, kể cả sách dịch của các tác giả cổ điển nước ngoài. Sức đọc của mọi người, do đó là sức lan tỏa phổ biến của sách, hồi ấy ghê lắm).

Mấy năm nay, tự nhiên, cái sức hấp dẫn ấy của các phố huyện mất hẳn. Hàng hóa nhiều hơn, các sạp hàng mọc ra nhan nhản. Cửa hàng sách vẫn còn, nhưng cứ như người bị bắt nạt, bé nhỏ thảm hại. Nó không còn là nó ngày trước. Không còn là một bộ phận làm nên niềm tự hào của phố huyện. Và trên các quầy sách, không phải những tác phẩm văn học nước ngoài, cũng không phải những cuốn tiểu thuyết, những tập thơ được soạn nghiêm chỉnh, mà chỉ là một ít sách vụ án, truyện tranh cho thiếu nhi, cùng là sách dạy nấu ăn, dạy chữa xe máy… chen chúc lộn xộn. “Ôi chao! Bây giờ thì mấy ai đọc sách nữa” – Nghe chúng tôi than thở, một người đế thêm.

Lại nhớ cái nhận xét mà nhà văn Nguyễn Khải có lần viết trong một bài báo (đại ý): về nông thôn bây giờ đâu cũng thấy người ta đóng tủ chè, nhưng tủ sách thì chịu, không thấy.

Nghe bâng quơ mà thoáng thấy một chút xót xa!

Và nếu mọi lần, nói đến phố huyện ngày xưa trong văn chương tiền chiến (chẳng hạn trong một số truyện ngắn của Thạch Lam) chúng tôi thấy buồn buồn, thì ngày nay, nghĩ đến phố huyện sầm uất, vẫn không khỏi buồn, mặc dù mỗi lần lại buồn theo một kiểu khác.

Nguyên nhân duy nhất

Anh H. và tôi chẳng những là bạn cùng cơ quan mà quê cũng gần nhau. Làng tôi nổi tiếng vì nghề làm tranh cùng các nghề vàng mã nên có mát mặt tí chút. Dân làng anh H. phải quảy cá con đi bán khắp nơi, lam lũ vất vả hơn. Một hôm, tôi không khỏi tròn mắt nhìn anh bạn khi nghe anh kể rằng: Trong số cái lạ của quê anh gần đây có chuyện dân chịu cho con cái đi học lắm. Khối nhà bán bớt cả vườn cả đất để dốc cho con theo những lớp luyện thi đại học trên Hà Nội. Tổng số sinh viên trong làng hiện đã lên tới con số vài chục.

Tôi phải thú thực ngay rằng thế thì đáng phục quá, bởi ngay bây giờ, cả làng tôi cũng chỉ có vài anh ngoi ngóp theo học những trường đại học loàng xoàng. Có anh cầm được cái bằng gọi là tốt nghiệp xong không kiếm được việc ngon lành, lại về chạy chợ như mọi người.

Sau phút ngạc nhiên, tôi gặng hỏi:

– Theo ông thì tại sao dân ông lại nổi máu hăng như thế?

– Làng tớ hồi trước có ai học đâu. Người ta vẫn tự nhủ là làng không có đất học. Dốt lắm! Nhưng từ hồi có mấy cậu đi Nga đi Đức về, có của, khai trương một lúc cả mấy cái khách sạn sang trọng ở Hà Nội cũng như trong Sài Gòn, người ta mới ngớ ra: Đám có học, khi nó đã định làm giàu, thì chỉ có chết với nó. Nay đang là thời buổi của những anh có bằng cấp. Vậy, phải đi mà học chứ còn gì nữa!

Đến chỗ này thì tôi hiểu.

Nghe nói địa phương có truyền thống hiếu học (những là “một đống ông đồ, một bồ tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn”) cũng đã sướng tai. Nhưng nghĩ cho kỹ, chuyện đi học có khác gì chuyện mưu sinh hàng ngày. Làng tôi, thanh niên ngại học cũng là vì miếng ăn: thì cái nghề hàng mã đang chạy, tội gì không theo?! Còn khi dân bên anh H. giờ đây ham học như thế, nói xuôi nói ngược một hồi rút cục cũng là vì miếng ăn. Ví von một cách thô thiển: Hôm nay trồng khoai tây, trồng dưa chuột có người mua, tôi trồng mấy thứ rau đó. Đến mai có ai bảo phải trồng vải, trồng nhãn mới sống, tôi trông trước trông sau mà thấy đúng, là sẽ xoay sang mấy thứ cây lưu niên ấy ngay. Quyết tâm và chăm chỉ có thừa, khôn ngoan rồi tự nó sẽ đến, chỉ khổ một nỗi làm gì cho được lâu dài thì không biết. Nông thôn của ta là thế, hãy nghĩ về quê ta một cách thiết thực như thế, anh sẽ hiểu được mọi truyền thống hôm qua, cũng như bộ mặt hôm nay của nó.

Không biết quản lý

Giả sử một người nông dân chưa biết sử dụng xe máy bỗng có chiếc Dream trong tay. Khuyên bác ta rằng tội gì, cứ ngồi lên xe mà phóng đại đi, bác sẽ cười cười, bụng nghĩ là tôi nói đùa, nếu không thì tôi xui dại. Rồi bác sẵn sàng cất kỹ chiếc xe có thể lao đi với dăm bảy chục kilômét một giờ đó, để ngồi lên chiếc xe đang cọc cạch, hoặc… cuốc bộ lên tỉnh.

So với một chiếc Dream thì một di tích văn hóa còn là cái gì… rắc rối hơn nhiều. Bảo quản trùng tu ra sao, tổ chức cho người đến tham quan thế nào để giữ được cảnh quan lâu dài – hàng trăm câu hỏi phải đặt ra khi đưa vào “khai thác”.

Ấy vậy mà có những tỉnh những huyện (nơi có di tích) xem đây là chuyện dễ ợt. Cứ mở cửa tràn cho người đến xem thu tiền, ngoài ra đường sá đi lại, chỗ ăn ở vệ sinh, cách phục vụ… không cần biết. Rồi năm này qua năm khác, sông suối ngày một bẩn thỉu, đồi núi vào mùa lễ hội khai mù, đền chùa biến dạng… người ta cũng nhắm mắt coi như không có. Chỉ thấy khách thập phương đổ xô đến là xoa tay yên tâm “Di sản đang được khai thác để góp phần giáo dục truyền thống”.

Biết rằng muốn điều khiển xe phải học, người nông dân tạm “vô kho” chiếc xe không sử dụng vội. Tức bác đã tính được là nếu ngồi lên xe, mình sẽ làm hỏng cái của quý kia. Và không chừng còn gây tai vạ cho người khác.

Thế nhưng những tỉnh những huyện thích quản lý di tích văn hóa không biết sợ như vậy. Họ tự tin, họ cứ theo nếp cũ mà làm, và nhắm mắt coi như không có cái chuyện di tích bị phá hoại. “Liệu lúc ấy mình có còn sống mà ngay từ bây giờ phải lo cho mệt?” – họ thản nhiên tự nhủ!

GỠ RA CHO THOÁT CÒN GÌ LÀ THÂN

Mất đất

Chỉ cần đứng ở các đầu ô, theo dõi hoạt động trên con đường nối Hà Nội với các tỉnh, người ta cũng sớm nhận ra thực chất các mối quan hệ giữa đô thị với các vùng nông thôn chung quanh. Đổ lên Hà Nội, ngoài gạo nước chỉ thấy mấy xe Minsk chở những bu gà và đôi khi là mấy con lợn đã mổ, những xe thồ chở rau, gần đây có thêm hàng đoàn xe đang chở cây cảnh. Xuôi đi các tỉnh thì trăm thứ bà rằn, không kể vải vóc, đồ điện, thuốc tây… gần đây đến cả đồ chơi trẻ con cũng đều là hàng từ Hà Nội. Ngày xưa có ai đi mua diều để thả bao giờ? Bố khéo tay thì làm cho con cái diều. Thô sơ, mộc mạc, nhưng mà đúng “cây nhà lá vườn”. Ngày nay diều từ Hà Nội đưa về là diều nhựa, xanh xanh đỏ đỏ, có người bảo là nhập lậu từ Trung Quốc.

Kiểu quan hệ hai chiều như thế, kể ra, cũng là một bước phát triển. Nông thôn ta đang được hưởng nhiều thành tựu của công nghiệp.

Chỉ phiền một nỗi, có phải như thế, tức là nông thôn ta lao động đã thừa, giờ đây càng thừa thêm? Những ngày nông nhàn, giờ đây, những người khéo tay không biết làm gì. Thị trường của họ bị thu hẹp. Họ đang mất đất ngay trên quê hương mình.

Tôi không ngớ ngẩn đến mức đề nghị bịt đường, không cho hàng hóa thành thị về nông thôn. Tôi chỉ ước ao thực hiện cái điều nhiều người đã biết, tức là làm sao nông thôn được tổ chức lại, từng vùng có mặt hàng riêng, đủ sức cạnh tranh với các mặt hàng vẫn bán trên đô thị (nếu không tốt hơn, đẹp hơn, thì cũng rẻ hơn, vừa túi tiền hơn). Nó là chuyện giải quyết lao động thừa. Nó lại cũng là một cách để giữ gìn một số làng nghề truyền thống, và nhìn rộng ra, là giữ gìn cái bản sắc riêng của dân mình.

Có điều, việc này không phải từng cá nhân có thể lo nổi.

Thất nghiệp sinh làm bậy

Nghe tới mấy chữ sau lũy tre, không ai không hiểu đây là để chỉ nông thôn Việt Nam. Nhưng có lẽ phải nói thêm đó là cái nông thôn xưa từng làng từng xóm khép kín trong một cộng đồng chật hẹp. Nông thôn bây giờ khác hẳn. Chẳng những một số nơi lũy tre không còn, mà cái chính là làng xóm đã mất đi hẳn tính cô lập, để hòa đồng với nhau, và xa hơn, hòa nhập với đô thị. Nghe nói ở ngoại vi Hà Nội (thường cách độ 100 cây số trở lại) nay có nhiều làng có ô tô hàng ngày chở người lên thủ đô buôn bán, chiều lại đón về.

Cái hay học được nhiều. Nhưng cái dở cũng theo đó mà thâm nhập.

Nay là lúc nạn hút xách, đĩ điếm, rồi cả nạn đề đóm, nạn côn đồ đầu gấu… không phải là đặc sản riêng của thành thị mà cũng có thể sâu cây bén rễ ở nông thôn, như một bệnh dịch, không dễ gì ngăn chặn.

Thông thường, người ta đổ lỗi cho sự giao lưu tiếp xúc đang được mở rộng. Nhiều cụ già chép miệng “Giá cứ như ngày xưa làng nào thuần túy làng ấy, thì đâu đến nỗi”.

Nhưng ngày xưa không thể trở lại! Câu chuyện từng làng khép kín đã thuộc về dĩ vãng.

Ở đây, tôi muốn đề nghị một cách nghĩ khác. Chẳng hạn chúng ta hãy thử tìm ra mối quan hệ giữa tệ nạn xã hội và phong trào làm ăn sản xuất của một địa phương. Hình như tình hình là như thế này:

– Nơi làm ăn khó khăn, nghề ngỗng chẳng có, lên Hà Nội chẳng qua gồng thuê, gánh mướn, thì các tệ nạn phát triển mạnh.

– Còn những nơi con người có nghề nghiệp chắc chắn, làm ra mặt hàng cung cấp cho thành phố, thì tuy cũng có chơi bời, nhưng người ta thường vượt lên, để tồn tại.

Tục ngữ xưa có câu: Giàu tham việc thất nghiệp tham ăn.

Nay có lẽ nên đổi đi đôi chút: Giàu tham việc, thất nghiệp tham làm bậy.

Nói cách khác, cuộc vận động chống các tệ nạn xã hội ở nông thôn tuy có phụ thuộc vào nền nếp truyền thống cũ, nhưng có lẽ cái mà nó phụ thuộc nhiều hơn cả là trình độ tổ chức sản xuất của từng làng xóm. Cây khỏe thì tự nó đã có thể chống được sâu bệnh.

Bao giờ cho đến ngày xưa

Một người bạn tôi ở Hải Hậu, Nam Định lên Hà Nội chơi, kể rằng ở quê anh vẫn còn tục lệ chỉ đàn ông mới được khiêng đòn đám ma. Vì vậy đang xảy ra tình trạng là ở một số làng, người chết không tìm được người khiêng. Nông thôn, trong cảnh thời tiết chất chưởng, làm ra hạt thóc chật vật khó khăn, cái nông thôn ấy, một số nơi, đang rỗng. Người nháo đi các nơi. Đi không chắc đã kiếm được cái ăn. Nhưng ở quê, biết làm gì hơn?

Những người ấy đi đâu?

Tôi nhớ những trai tráng ngồi quẩn bên nhau ở một số góc phố Hà Nội, chờ người đến thuê. Tôi nhớ những người bán hàng rong, kẻ này đẩy một ôm chiếu trên chiếc xe đạp “không phanh không gác-đờ-bu”, kẻ kia mặt mũi đỏ gay, lút đi giữa đống đồ nhựa. Và những em bé đánh giày len lỏi ở các quán ăn, quán giải khát, đội quân ấy đang ngày một đông thêm.

Không phải là các nhà nghiên cứu về xã hội không biết. Từ các tài liệu thu thập được đâu đó, rồi so sánh, đối chiếu, họ khái quát: “đây là cả một xu thế xuất hiện ở các nước đang phát triển”, “chẳng qua đây chỉ là tình thế tạm thời”.

Người bỏ quê đi chỉ nghĩ: túng thì phải tính.

Lại nhớ lâu nay vẫn nghe nói ở nhiều nước, dân thành phố mắc phải một chứng bệnh oái oăm là bệnh thương nhớ đồng quê. Tức là họ ngán các nhà chọc trời. Họ thèm về sống với hương đồng cỏ nội (chỉ về nông thôn để ở thôi còn vẫn làm việc ở thành phố; phương tiện giao thông thuận tiện, chỉ ù một cái là tới).

Phải chăng dân ta có thuốc tiêm phòng, nên thứ bệnh sang trọng ấy không lan truyền nổi?

Nghĩ cho vui thôi! Tôi tin không người nông dân nào muốn bỏ quê nhà ra đi. Chính nhiều người thành thị hiện nay cũng đã bắt đầu cảm thấy cuộc sống nơi đây là quá nặng nề (môi trường ô nhiễm không cách gì sửa chữa). Và ước ao có ngày được tận hưởng cái không khí thanh bình yên ả sau lũy tre xanh. Chỉ có điều, thực tế trước mắt, thì hãy cùng phải chấp nhận. Sẽ có một ngày nông thôn là của tất cả chúng ta, nhưng cái ngày ấy, còn xa lăng lắc.

NẾP SỐNG LÀNG QUÊ GIỮA LÒNG PHỐ XÁ

Muôn hình muôn vẻ

Từ khoảng giữa những năm chín mươi, mỗi tối giao thừa, Hà Nội có đỡ ồn vì tiếng pháo. Nhưng vào dịp một năm cũ qua đi một năm mới bắt đầu, người đi quanh Hồ Gươm hái lộc vẫn tấp nập nhộn nhạo. Và sáng mồng một, ai có dịp đi vòng quanh hồ, vẫn nhận ra vài ngọn cây bị vặt trụi.

Vượt lên câu chuyện văn minh, lịch sự (và hơn nữa, chuyện vi phạm pháp luật), việc bẻ cây hái lộc còn nên xem như một biểu hiện của nếp sống nông thôn tồn tại dài dài trong tâm thức người Hà Nội. Tại sao nói vậy? So với văn hóa thành thị thì văn hóa nông thôn vốn có một đặc tính khác hẳn là gần tự nhiên. Ở đây, người ta mặc nhiên cho rằng thiên nhiên là một thứ của kho vô tận, khai thác không bao giờ cạn kiệt, nên không ai cần nghĩ tới việc giữ gìn. Chỉ ở thành thị, cây cối lớn lên do bàn tay con người vun xới, chuyện xâm phạm tới chúng – dù với bất cứ lý do gì – mới bị coi là câu chuyện đáng trách.

Nói cho thật tình, không phải nhiều người Hà Nội hôm nay không biết rằng cái căn cốt nông thôn vẫn còn chi phối suy nghĩ hành động nơi mình, song phần thì cuộc sống nhiều khi quá túng bấn, nên tặc lưỡi làm liều; phần thì thói quen không thể khắc phục, nên biết làm thế là quê mùa đấy, cũ kỹ đấy, mà vẫn cứ làm. Người ta sóng đôi, sóng ba xe đạp nghênh ngang tận giữa lòng đường nói bô bô đủ chuyện riêng tư, bất chấp cạnh mình các loại xe cơ giới bóp còi inh ỏi. Người ta hồn nhiên biến vỉa hè thành địa điểm hành nghề, nhiều nhà dọn cả hỏa lò ra để đun nấu và nói chung là sẵn sàng mặc các thứ quần áo đáng lẽ chỉ mặc trong nhà để qua đường, mua phở, mua thuốc. Rồi gì nữa? Rồi thấy đám quệt xe đâm đổ hoặc cãi nhau thì xúm đông xúm đỏ bàn tán, rồi chuyện gì cũng mang ra đồn thổi, vừa đồn vừa thêm dấm thêm ớt vào cho vui chuyện… Mọi chuyện diễn ra đều đều, ai có bực mình cũng ráng mà chịu.

Một sự sùng bái kéo dài

Như các nhà nghiên cứu lịch sử từng khái quát “quá trình đô thị hóa ở nước Việt Nam đã diễn ra một cách khó khăn”, “các đô thị cổ không có sự phát triển liên tục”, chúng luôn luôn “chịu sự níu kéo đa dạng và dai dẳng của nông thôn”. Nói cách khác, “luôn luôn chịu số phận thua kém trong quan hệ cộng sinh với nông thôn” (sách Đô thị cổ Việt Nam, Viện Sử học xuất bản, Hà Nội 1989). Tóm lại, “một điểm nổi bật trong lịch sử đô thị Việt Nam là tất cả những đô thị kinh tế… đều hưng thịnh rồi lần lượt suy tàn và nông thôn hóa” (cũng sách trên, bài của Nguyễn Hồng Phong).

Bên cạnh chính sử, các tài liệu bổ trợ như hồi ký, du ký của người đương thời cũng cho biết: ngay đến thời vua Lê chúa Trịnh, nhiều dòng họ khi làm quan hay cần buôn bán, kéo nhau lên đô thị, song sống vẫn theo kiểu tạm bợ, và sẵn sàng quay về nông thôn một cách tự nguyện. Như vậy thì đô thị luôn luôn là một thứ điểm tụ cư tạm thời, khó hình thành được bản sắc rõ rệt, nếu không muốn nói đến cái bản sắc nhố nhăng hỗn tạp. Cực chẳng đã, nhiều dòng họ phải ở lại đô thị lâu dài, song vẫn không khỏi có chút mặc cảm. Xảy ra một tình trạng lưỡng phân: một mặt họ phải thích ứng với hoàn cảnh mới, phải tận dụng các tiện nghi sinh hoạt mới du nhập, nói chung là phải tự phát hình thành một nền nếp văn hóa mới; mặt khác, họ vẫn lưu luyến cội rễ, nhất là vẫn xem văn hóa nông thôn như một thứ mẫu mực. Với những lề thói sẵn có từ thời còn sống ở nơi chôn rau cắt rốn, người ta tự nguyện tuân theo, chỉ cái nào không thể giữ nổi mới từ bỏ. Và việc trút bỏ này dù liên tục xảy ra, thì vẫn là không bao giờ đi đến tận cùng; những nếp sống xa xưa được bảo trì và trở nên bền vững, di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Trở lên là chuyện lịch sử. Thế còn chuyện hôm nay thì sao? Xin thưa: cũng có nhiều nét tương tự! Các bản thống kê chính thức cho biết từ sau 1954 đến 1994, tức 40 năm qua, đại khái dân số Hà Nội tăng lên khoảng mười lần. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp là dịp đầu tiên để người nông thôn đổ lên Hà Nội một cách ồ ạt. Rồi từ đó quá trình ngày một tiếp tục. Ngay trong hoàn cảnh chiến tranh chống Mỹ, người ta vẫn có muôn vàn cách để trở thành người Hà Nội. Anh em làm văn, làm báo quan tâm tới chuyện này thường vẫn kháo nhau: hiện có những làng quê Nghệ Tĩnh mà số dân, cả con cái dâu rể, có mặt ở Hà Nội còn đông hơn cả số dân hiện còn sống ở làng. Vào nhiều gia đình, không cần tinh ý lắm, người ta vẫn bắt gặp tình cảnh bố mẹ nói tiếng địa phương, còn con cái nói tiếng Hà Nội. Tiếng nói thủ đô trở nên pha tạp, hỗn độn, như nói chung cung cách sống, khẩu vị ăn uống, cách đi lại, cách cư xử đã pha tạp và không thể hình thành nổi những chuẩn mực chắc chắn như những năm thanh bình ngày trước.

Công bằng mà nói, một thành phố như Hà Nội trước 1945 có thể trở thành một thủ đô đích thực về mặt tinh thần của cả xứ Đông Dương, lý do là vì nó luôn luôn thu hút được những tài năng ở vùng khác kéo tới. Nhìn vào số trí thức tiêu biểu ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 như Tản Đà, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Phan Chánh… người ta thấy phần lớn họ vốn quê ở “tứ tỉnh đàng trong, ngũ tỉnh đàng ngoài”, và một khi do hoàn cảnh xô đẩy mà lên lập nghiệp ở Hà Nội, một số trong họ sẽ diễn lại cái công thức Nguyễn Huệ – Ngọc Hân khi xưa, nghĩa là sẽ kén vợ trong đám người đẹp ở thủ đô, để rồi làm nên những gia đình Hà Nội lịch thiệp, sang trọng. Và như vậy, đã có một sự kết hợp tuyệt đẹp mà trong sự kết hợp này, vai trò chủ đạo vẫn thuộc về yếu tố sở tại. Người các địa phương lên Hà Nội lúc bấy giờ đã lấy Hà Nội – đúng hơn, lấy nếp sống thành thị – làm chuẩn, họ có ý thức uốn mình sống theo kiểu Hà Nội hơn là giữ lấy chất nông thôn sẵn có. Ngược lại, do chỗ xu thế này chưa trở thành yếu tố chủ đạo trong tâm thức những người lên Hà Nội thời gian gần đây – và người ta còn có thể nói tới một cái gì gần như sự sùng bái nông thôn ngự trị tận trong tiềm thức cả người Hà Nội mới lẫn người Hà Nội cũ – nên Hà Nội có trở thành như hôm nay, cũng không ai lấy làm lạ.

“Hãy đợi đấy!” – hay là thói quen khó bỏ

“Làm thế nào để nếp sống thủ đô trở nên nhuần nhị hơn và văn hóa Hà Nội thật sự là một thứ văn hóa đô thị với nghĩa tốt đẹp của nó?”. Cuối cùng thì ai cũng thấy câu trả lời chả có gì phức tạp, song muốn làm được ngay thì… hãy đợi đấy! Bởi một nếp sống văn hóa không chỉ hình thành trên cơ sở nhận thức – là điều nếu có, may ra có thể – mà còn phải biến thành tiềm thức, thói quen, đến mức không chút cố gắng, người ta cũng làm được. Muốn vậy, phải mất nhiều thời gian lắm.

Khổ một nỗi, trong khi người Hà Nội chưa đủ sức nâng mình lên, thì dân các vùng nông thôn chung quanh lại như là vẫn muốn kéo Hà Nội xuống, và đây mới thật là chuyện “hai lần thương khó”. Có một lẽ công bằng mà không luật pháp nào quy định, song ai cũng thấy phải, ấy là Hà Nội chỉ trở thành đô thị thực thụ nếu nó có thể góp phần giúp cho cuộc sống các vùng chung quanh ngày một ổn định, người dân nông thôn thu nhập khấm khá tới mức nhìn về bà con của mình ở thành thị với con mắt thiện cảm và yên tâm ở lại quê hương “phục vụ” Hà Nội. Nhưng “ốc chưa mang nổi ốc” thì “làm cọc cho rêu” sao được?! Trước mắt, người dân Hà Nội vẫn còn đương phải dựa vào cái ưu thế gần nông thôn của mình để cuộc sống đỡ nặng nề đôi chút, thế mới oái oăm khó gỡ. Lấy một ví dụ: từ lâu, Hà Nội vốn nổi tiếng với các loại hàng rong len lỏi khắp ba mươi sáu phố phường. Vào những ngày này, khi đoàn quân những xe Honda, Dream… hùng hậu nối đuôi nhau trên các ngả đường, thì đội quân hàng rong vẫn nhẫn nại dệt nên tấm võng khổng lồ ngày ngày chụp xuống mọi ngóc ngách Hà Nội. Không chỉ rau cỏ mắm muối mà cả chum vại, cây cảnh và hàng trăm mặt hàng lặt vặt khác đã đến với người dân thủ đô qua đôi vai (hoặc xe đẩy, xe đạp) của người bán rong, phần lớn là những người ven đô, và những người của các tỉnh xa đến kiếm sống. Nhìn mấy chị xe thồ hai bên hai cái sọt to bự nghênh ngang giữa đường, kể ai mà chẳng ngán. Nhưng bù lại, họ mang hàng đến tận nơi mời chào, và đôi khi giá lại rẻ nữa, hỏi tội gì không mua? Ấy đấy, trong khi luôn miệng ta thán rằng cái thành phố của mình chẳng khác làng quê, thì người dân Hà Nội vẫn từng ngày từng giờ góp phần làm cho cái nếp sống thôn quê bắt rễ sâu hơn trong đời sống hằng ngày, nên thay đổi nhanh làm sao nổi.

NHÌN TỪ HAI PHÍA

Nỗi đau khổ không của riêng ai

Nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được mở đầu bằng một nhận xét ngược đời. Truyện ngắn mang tên Thằng quýt (viết năm 1937) cũng vậy. Nhà văn kể rằng một số người đi giúp việc có lối vô tâm làm cho chủ nhà rất khó xử: họ thường không nhận tiền công ngay mà lại chỉ rình lúc chủ đang túng bấn là đòi tiền công, “có khi tích lũy đến hàng ba bốn chục, đến nỗi trả được xong xuôi, nhiều ông chủ ngồi bó giò, thuỗn mặt ra mà tiếc ngơ tiếc ngẩn”. Nguyễn Công Hoan khái quát: Chính cánh giúp việc ấy là đám chúa ác.

(Đây chẳng qua là một cách nói. Sau đoạn mở đầu ngược đời này, cả thiên truyện Thằng quýt rút lại là chuyện một người chủ ăn cắp ngay của đầy tớ.)

Tôi thường nhớ tới cái câu lạ tai này trong nhiều buổi chuyện trò đấu hót với anh em trong cơ quan và bạn bè xa gần.

Chả là thời nay, không ít nhà bọn tôi do vợ chồng cùng đi làm cả, phải có người giúp việc, gọi chung là ô-sin.

Một đặc điểm mà chúng tôi thường không biết kêu ai: Ấy là nhiều khi các ô – sin làm khổ chủ nhà bằng cái lớ ngớ của người không quen với cuộc sống đô thị. Cáu giận không được, các gia chủ chỉ còn có cách kêu trời!

Không trách được người chưa biết

Sau ngày 30-4-75, nhiều cán bộ miền bắc được phân công vào miền nam, và bên cạnh một số thạo việc, thì một số hiện ra như những người quê mùa, thiển cận, không hiểu biết và do đó không thích ứng được với một Sài Gòn năng động. Chẳng những thế, một số khác sa đà trong cảnh ăn chơi hưởng thụ.

Có nhiều cách giải thích về chuyện này nhưng tôi nhớ hơn cả cái ý của nhà khoa học Trần Đại Nghĩa từng nói trong một buổi nói chuyện ở Thư viện quốc gia Hà Nội:

– Có gì lạ đâu. Hãy hình dung xã hội miền nam như một cỗ máy, nhiều anh em vào đấy mà không được chỉ dẫn trước rằng cỗ máy đó hoạt động ra sao, thành ra nhiều khi họ cho cả tay vào, vừa hỏng máy vừa hỏng người, nhưng khách quan mà xét không trách họ được.

Đối với người nông dân lên đô thị làm ăn – ở đây là các ô sin – cũng vậy.

Tự phát và được quản lý chặt chẽ

Khi đến Nam Ninh (Quảng Tây) Trung Quốc, tôi thấy đám đánh giày có hẳn một loại trang phục riêng. Và nghe nói cái hòm đồ nghề của họ cũng phải thống nhất theo một kích thước đã quy định. Hỏi ra mới biết, từ nông thôn lên họ có được huấn luyện cẩn thận rồi mới được cấp phép hành nghề. Đó là quá trình đô thị hóa có ý thức, đô thị hóa có kiểm soát.

Còn ở ta thì sao? Tôi muốn dùng lại cái từ tự phát. Nói nôm na là gặp đâu làm đấy, bất cứ ai muốn lên thành phố khi nào thì lên làm gì thì làm, thành phố như miếng mồi ngon ai liều lĩnh và biết cách xoay sở, người đó được.

Sự ra đi bất đắc dĩ

Sống giữa làng quê là cách sống tự nhiên của con người. Đô thị chỉ hình thành khi cuộc sống tự nhiên ấy, người ta cảm thấy không đủ nữa, và muốn sống khác đi. Trên nguyên tắc, cuộc sống đô thị là cuộc sống được tổ chức. Con người phải tập cho mình những thói quen mới.

Thế nhưng ở ta nhiều người có một quan niệm khác. Vì miếng cơm manh áo mà phải lên đô thị kiếm ăn nhưng bụng dạ hình như vẫn để cả ở chốn quê hương, xem những ngày xưa là cái mẫu mực tuyệt vời mà con người hôm nay không với tới được. Và sự tạm bợ cứ thế kéo dài cả một đời người cả mấy thế hệ.

Trở lại với lịch sử

Thời nào thì việc Hà Nội được bổ sung bằng người các tỉnh cũng là chuyện thường xảy ra. Nhưng xưa nay vẫn có chỗ khác:

Ngày trước người các tỉnh lẻ lên Hà Nội phần lớn là thông qua các nhà trường. Từ các tỉnh vào các trường học rồi do học giỏi mà ở lại Hà Nội làm việc luôn. Hoặc những người làm nghề gì đấy, nhưng tài hoa khéo léo, có tay nghề cao, chỉ Hà Nội mới tiêu hóa hết khả năng nghề nghiệp của họ. Cũng có những người lên theo lối tắt. Nhưng dù bằng cách nào thì người ta cũng nhìn Hà Nội với sự tôn kính: nơi đó, người ta sống ở trình độ cao hơn mình, mình phải kín đáo học hỏi để cho người ta khỏi nghĩ mình ngây ngô vụng dại.

Còn ngày nay, nhiều người lên thành phố với ý nghĩ trên ấy cũng chả hơn gì mình, chẳng việc gì phải giữ gìn khép nép cho thêm mệt. Tha hồ ăn vận lôi thôi. Hoặc có học theo được ít mốt mới, song chỉ là chuyện may mặc đắp điếm cho dễ coi. Ngoài ra hàng ngày vẫn nói tục, nói ngọng. Giữ nguyên cái lối gặp đâu hay đấy tùy tiện của một nếp sống đơn giản. Xem cả thành phố là một cái làng lớn, bệ nguyên xi những mối quan hệ họ hàng gia đình vào công việc. Thành thử giữa đôi bên, hỏi rằng ai làm khổ ai, thật cũng khó nói cho được rành mạch.

ĐẸP ĐẤY MÀ CŨNG XẤU ĐẤY

Nơi tôi đang ở là một làng quê bên sông Hồng. Từ thuở có cầu Chương Dương rồi thành phố mở rộng, dân làng bán được đất xây nhà ầm ầm, cùng lúc cả làng có đến hàng chục nhà cùng khởi công xây dựng. Mà thời bây giờ mọi chuyện tiến bộ nhanh lắm, nhà nào mới xây cũng ra dáng hiện đại.

Gu Pháp đang thịnh hành, người ta mô phỏng rất nhanh những kiểu nhà mà ngày trước tôi chỉ thấy ở mấy đại lộ Lê Hồng Phong, Trần Phú trên quận Ba Đình.

Với mấy vị lão thành và có đi nhiều, bọn tôi nói đùa, nhà trong làng mà toàn như dinh công sứ với nhà quan tỉnh trưởng cả.

Nhưng cái bệnh cũ của dân mình vẫn bộc lộ: Đèn nhà ai nhà ấy rạng. Tức là chỉ biết ý thích của mình, không tính toán gì đến quy hoạch chung, càng không cần đếm xỉa đến kiểu dáng nhà hàng xóm xem nhà mình với nhà họ hai bên có ăn ý với nhau không. Bao nhiêu làng khác cũng xây dựng theo lối tùy nghi như vậy có riêng gì làng tôi? Cũng như thành phố có khi cả khu phố mới xây, mà vẫn cứ vênh váo, chẳng ra một thứ đường nét nào cho mạch lạc.

Về chuyện cảnh quan chung thì còn nhiều dẫn chứng khác để nói. Sinh thời một người bạn vong niên của tôi là Nguyễn Đình Nghi làm nghề đạo diễn sân khấu. Mà đạo diễn là gì ư, đơn giản lắm là người đứng ra phối hợp hoạt động của nhiều bộ phận khác nhau, để hình thành ý định chung. Bởi vậy anh Nghi rất nhạy trong việc đánh giá những hoạt động cần tới sự phối hợp của nhiều người. Chẳng hạn anh thường nửa đùa nửa thật giễu ngành múa: đặc điểm của múa Việt Nam là múa không đều, và khi cần có một hình tròn thì người ta thường có một hình bầu dục.

Học theo Nguyễn Đình Nghi, tôi cũng muốn bảo đặc điểm của các công trình kiến trúc dân lập hiện nay là tính tự phát, chẳng ai đứng ra phối hợp kiểu dáng, thành thử chỉ có những ngôi nhà đẹp chứ không có những quần thể kiến trúc đẹp, những khu phố đẹp.

Trong một tài liệu nghiên cứu về nông thôn, tôi đọc được nhận xét của một nhà khoa học: cái mà chúng ta mới làm được một phần là lo nước sạch. Nhưng về lâu về dài, một đời sống gọi là có văn hóa còn phụ thuộc vào câu chuyện xử lý chất thải các loại rác và cống rãnh nói chung (chính nó cũng quyết định cả chất lượng nước sạch nữa).

Nghe mà giật mình. Làng xóm bây giờ nhà gạch san sát, việc xây cho mình khu phụ riêng để giặt giũ tắm rửa đã quá phổ cập. Có nhà khu phụ này còn được xây ngay trong nhà, chữ của thời bây giờ gọi là công trình khép kín, có cả vòi hoa sen với xí bệt cẩn thận. Chỉ hiềm không mấy khi thấy ai nói đến hệ thống cống rãnh nước thải chung cho cả làng.

Đến một vài nơi gọi là du xuân sau những ngày hội, cái ấn tượng sau cùng về một vùng đất thường là những đống rác rấp vào ven bụi tre, hoặc một chỗ khuất nào đó bên đường. Đặc điểm đống rác thời nay là trông xa đã thấy các loại túi ny lông màu trắng lốm đốm nổi lên trên nền mùn rác đen kịt.

Lại nói tiếp về chuyện cái làng quê ngoại thành nơi tôi đang ở. Xưa, nghe kể đường đất trơn như mỡ có anh bộ đội mượn được cái xe đạp về thăm quê đến đầu làng phải vác xe lên vai cõng nó về đến cửa buồng. Nay thì đường xi măng phẳng lỳ. Có điều từ hồi bán được đất nhà nào cũng xây dựng. Đường lúc nào cũng lầm lầm mặt cát. Ngày mưa cát vón lại thành bờ, ngày nắng cát bay mù mịt. Ai cũng có lúc xây, nên không ai bảo được ai. Những đống cát thay nhau đứng lù lù ven đường.

Ở cửa khẩu Hữu nghị quan, vẫn thường thấy có một vài chiếc xe ô tô chở hàng mang biển chữ vuông qua lại phía bên đất Việt Nam. Nhưng, nhiều lần tôi thấy những người lái xe bên kia cẩn thận phun nước rửa sạch lốp trước khi trở về Trung Quốc. Hình như đường đất bên mình đất đá bẩn quá, mà luật nước họ không cho phép, cứ để bẩn vậy chắc bị phạt. Bao giờ thì mình làm được như vậy?

NHỮNG SỰ DANG DỞ

Xóm tôi đang ở còn vắng xe cơ giới qua lại, nên nghe rõ mỗi tiếng rao của từng người bán hàng rong. Mà người bán hàng đi đều lâu ngày thành quen, nghe giọng biết ngay đó là ai. Nên buổi trưa hôm ấy, cũng cái câu Ai bánh mì bánh chưng bánh giầy nóng đây nhiều người đã rao, mà nghe cứ thấy lướng vướng là lạ. Thì ra một giọng rao hàng mới.

– Lại thêm một người mới bỏ quê lên Hà Nội để bổ sung vào đội quân nhập cư.

Nhân đây lại ngồi nghĩ lan man về dân các tỉnh lên đô thị.

Cho tới đầu thế kỷ XX, dân ta còn bị nhận xét là chỉ ru rú xó nhà. Người ở nông thôn ngại đi xa và đi đâu cũng mang bộ mặt “ngơ ngẩn như nhà quê ra tỉnh”. Trải qua cách mạng và kháng chiến, đến thời làm ăn kinh tế hiện nay, người ta đã đến với các đô thị với một tâm thế khác. Họ cảm thấy mình có quyền có mặt ở đây. Buổi sáng nhìn các đoàn xe đạp rầm rập qua cầu Long Biên hoặc xe máy rú ga lên dốc cầu Chương Dương, có cảm tưởng đô thị là một con mồi lớn để họ tha hồ tung hoành kiếm ăn. Tự tin. Hào hứng…

Để công bằng, phải nói ngay là người từ nông thôn lên nhiều một phần là do yêu cầu của chính các đô thị. Kinh tế phát triển nghĩa là thiếu hụt sức lao động, nhất là các loại lao động đơn giản. Sự có mặt của đám nhân công rẻ đã thúc đẩy cho công cuộc làm ăn xây dựng của thủ đô thêm sôi động. Bao nhiêu gia đình Hà Nội đã dựa vào những ô-sin thuê với giá rẻ để làm ăn buôn bán. Bao gia đình có thêm người phục vụ cơm nước.

Có điều nếu như tự phát là đặc điểm lớn nhất của nhiều hoạt động ở ta hiện nay thì nó cũng là đặc điểm của quá trình đô thị hóa mà chúng ta thử tách mình ra quan sát.

Ở các nước khác, người nông thôn lên phần lớn để vào các nhà máy. Ở ta nông dân lên đô thị là để đổ ra đường buôn bán nhỏ. Những đôi quang gánh vẫn còn, nay lại được bổ sung bằng những chiếc xe thồ với hai sọt thồ lù lù trên đường làm cho Hà Nội có cái vẻ một phố huyện tấp nập nhưng lộn xộn.

Cái sự đô thị hóa tự phát, đô thị hóa dang dở không trọn vẹn này thật ra là một đặc điểm của lịch sử. Tôi nhớ tới một số làng ở vùng quanh Hà Nội. Dân không còn làm ruộng mà thường làm đủ các nghề. Mỗi nhà chỉ còn một khoảng diện tích rất hẹp. Chẳng còn là làng nhưng cũng chẳng ra phố. Con ngài không thoát khỏi cái vỏ dày để bay lên thành con bướm. Sự dang dở đó nay được nhân lên, nhưng cốt cách vẫn không khác.

Nhìn những người dân với mớ cây cảnh sau xe đạp đi bán rong, tôi cảm thấy phải gọi họ là một thứ cây ghép nửa quê nửa tỉnh mới đúng. Vì chỉ tối họ mới quay về lấy hàng, còn như suốt ngày lang thang khắp mọi phố xá, xó xỉnh nào cũng biết. Giá có công nghiên cứu, có thể ngồi phân tích ra cái gọi là một quá trình biến chất xảy ra ở họ dần dà mỗi ngày một ít.

Nhiều người nông thôn lên đô thị đang là một thứ cây ghép như vậy!

Nhưng chính đô thị cũng lại là một dạng lai ghép.

Chúng tôi là cánh ít tiền, nên có rủ nhau đi ăn trưa, thường cũng chỉ vào các cửa hàng cơm bụi. Một đặc điểm của các cửa hàng loại này là không chỉ bàn ghế đồ đạc mà người phục vụ cũng xuềnh xoàng, trông qua biết ngay là dân các tỉnh lên Hà Nội làm ăn. Nhưng một anh bạn tôi bảo:

– Ông nhầm. Cả các cửa hàng ăn xịn cũng vậy. Chẳng qua, người lên trước người lên sau, với lại bọn chủ có chịu chi tiền may mặc cho nhân viên hay không thôi. Chứ ngay như các cửa hàng đồng hồ với cửa hàng vải trên phố Hàng Đào thì dân đứng bán nhiều khi cũng là dân các tỉnh.

Tôi cố gặng:

– Tức là chúng ta không bao giờ được người Hà Nội chính hiệu phục vụ.

Anh bạn ra chiều thạo đời:

– Tất nhiên rồi. Nay là thời không còn cái gì thuần nhất. Đến các giống lúa nổi tiếng ngày xưa cũng không còn thuần chủng, lấy đâu ra người thuần chủng. Nói vô phép nhé, chính đám người đi ăn cũng có phải Hà Nội chính hiệu đâu, mà đòi người Hà Nội chính cống phục vụ.

Thôi thì hãy tạm bằng lòng với một thứ đô thị nhôm nhoam, đô thị luôn luôn dang dở không bao giờ thuần nhất vậy!

NGUY CƠ CỦA CUỘC SỐNG TẠM BỢ

Thử suy nghĩ về một lớp người từ nông thôn kéo lên đô thị kiếm việc dưới góc độ văn hóa

Chỗ tôi đang sống là một cửa ngõ để ra vào Hà Nội, một thứ “đầu ô” hiện đại. Sáng sớm, cùng với tiếng gà gáy, tôi nghe râm ran tiếng người đi chợ trên đê. Mỗi người mỗi xe đạp, sau xe là cái giá gỗ buộc tạm, trên đặt cây cảnh. Đây là thứ hàng mà họ sẽ phải lang thang suốt ngày ở Hà Nội để bán bằng hết (theo tôi biết, họ thường sáng đi chiều về, chỉ trong trường hợp hàng đọng quá nhiều, mới phải ngủ tạm Hà Nội, nhưng không thường xuyên).

Ai cũng biết đám người bán cây cảnh nói ở đây, chỉ là một bộ phận nhỏ trong đội quân đông đảo những người đêm về nông thôn, nhưng ngày sống với đường phố Hà Nội. Có thể kể thêm vào đây từ mấy chị xe thồ hoa quả hoặc các loại rau su hào bắp cải, cho tới mấy bà khoác bị giò chả hoặc đôi mẹt quà bánh đi bán rong. Nhìn qua thì họ vẫn có vẻ nông dân đặc. Nhưng người ta sẽ phải nghĩ khác khi đặt câu hỏi: tính hết thời gian ngày hăm bốn tiếng, họ sống với nông thôn nhiều hơn hay đô thị nhiều hơn? Vậy xếp họ là cư dân ở đâu cho chính xác?

Bên cạnh đám người đi đi về về hàng ngày nói trên, còn khá nhiều người từ nông thôn lên tá túc trong những quán trọ bình dân để bám trụ Hà Nội lâu dài hơn. Đó là các chú nhóc chuyên đánh giày len lỏi khắp nơi; là những bà bán kem, hoặc đội thúng bánh mì rao ời ời suốt ngày; rồi những gã trai trẻ hoặc mấy bác diện trung niên thong thả đạp chiếc xe đạp cũ, rọ xe chất chồng các loại bẫy chuột, xích chó, thuốc đánh ruồi…, hoặc những cô gái mặt đỏ rừ đẩy chiếc xe nôi cải tiến, trên xe khi lủng lẳng các loại quần áo, khăn mặt, khi khác chói lên màu xanh đỏ của các loại đồ nhựa. Với những người này, nguồn hàng ở ngay Hà Nội, nên họ không phải đi đi về về mất thì giờ.

Một đặc điểm nữa thấy rõ trong sinh hoạt Hà Nội mấy năm gần đây, ấy là bà con từ quê lên không chỉ lấp đầy đường phố mà còn tràn vào từng gia đình. Tới nhà bạn chơi, thấy có con bé nào là lạ trông em hoặc bưng nước mời khách thì không cần hỏi, ta cũng dễ đoán là loại ô-sin mới học nghề. Ngay nhiều cô cậu đứng bán ở các cửa hàng cũng đều là dân nông thôn tạm tuyển. Mới ra, trông còn đen đủi, nếu như ở đây một hai năm trơn lông đỏ da, cũng dễ nhầm lắm. Song chỉ cần nói mấy câu là lộ chân tướng ngay.

Tóm lại, trước mắt chúng ta là một sự bổ sung thường trực, tạo nên một sự pha trộn kỳ lạ giữa đô thị và nông thôn, nó cũng là một biểu hiện của xu thế đô thị hóa người ta hay nói.

“Một số lượng người chưa từng thấy đang đổ xô vào các thành phố của các nước đang phát triển. Họ làm thế nào để có thể sống nổi?”.

Đó là câu hỏi thảng thốt cất lên trong bài mở đầu của số báo Người đưa tin UNESCO ra tháng 6.1999. Số này dành riêng để nói về tình cảnh người nông thôn ra đô thị kiếm việc, ở hàng loạt nước Á – Phi – Mỹ la tinh.

Hóa ra, tình trạng mà trên kia, chúng tôi thử điểm qua, không chỉ là chuyện riêng của Việt Nam.

Ở đây, theo thói quen “tình cảm chủ nghĩa”, người ta có thể bắt đầu bằng những cái chép miệng và những lời lẽ thương xót, đại khái như “Ối giời! Có khó khăn dân mới phải rời bỏ quê hương bản quán lặn lội kiếm ăn như vậy”, tiếp đó nêu ra vài hoạt động từ thiện cần làm để mọi người cùng an lòng.

Nhưng theo ý chúng tôi, hiện tượng cần được xem xét nghiêm chỉnh hơn. Do chỗ đô thị hóa tự phát đã trở thành một xu thế không thể kiểm soát nổi, nên trước hết nó đòi hỏi một sự phân tích khoa học.

Sự tồn tại của đám người “nửa quê nửa tỉnh” có thể là đề tài của những ai quan tâm tới các vấn đề an ninh, hoặc dân số, hoặc kinh tế. Riêng tôi, tôi muốn lưu ý tới khía cạnh nếp sống của con người trong xã hội, tức xem xét hiện tượng dưới góc độ văn hóa.

Khi nói về một cuộc sống ổn định, dân ta thường dùng hai chữ nền nếp, ý nói mọi hoạt động đi vào cái mạch thông thường của nó, con người sống theo những chuẩn mực mà cộng đồng đã quy định. Qua sự sàng lọc của thời gian, cuộc sống ổn định ấy dần dần hình thành nên một thứ văn hóa chung sống, sinh động, bền vững.

Bắt đầu từ cái tiêu chuẩn ổn định này để xem xét thì thấy cuộc sống của lớp người chúng ta đang nói, thiếu một nền nếp cơ bản nên chỉ còn là bấp bênh, tạm bợ. Do nhu cầu kiếm sống, họ ở trong một tình trạng “rơi tự do”, nghĩa là lạc vào một khung cảnh nhiều phần hỗn độn. Họ không còn là dân nông thôn, chung quanh có gia đình, họ hàng để làm gì cũng phải gìn giữ, phải trông trước trông sau kẻo “mang tiếng”. Họ cũng chưa thành ra dân đô thị, để có được cái mà người ta thường gọi bằng sĩ diện, tức là một chút tự trọng của những cư dân các vùng thuộc loại phát triển trong xã hội. Những thói xấu mà ở nông thôn, giữa môi trường ổn định và quen thuộc, họ dễ dàng kiềm chế, thì ở đây được thả lỏng. Ngược lại, những quy chuẩn mà người dân thành thị được giáo dục từ nhỏ tự nguyện noi theo, thì họ không được biết. Vả nếu có biết, họ cũng không bắt buộc phải thực hiện. Vì có ai biết họ là ai mà phải gìn giữ! Quả thật, sự tự do lúc này với con người là cả một thách thức. Có thể với một số người, cuộc kiếm sống đầy gian nan đã rèn giũa cho họ những phẩm chất tốt đẹp. Hàng ngày họ chăm chỉ làm ăn, lam lũ vất vả, chỉ cốt sao có ít tiền gửi về chi viện cho gia đình, hoặc có chút vốn giắt thắt lưng, dùng cho các việc lâu dài. Song với một số người khác, càng sống trong thành thị, họ càng cảm thấy sự vô lý của kiếp người; chắt bóp lắm chẳng qua cũng chỉ thêm được mấy đồng bạc vụn. Trong khi đó những người chung quanh buôn bán trao tay tiền nghìn bạc vạn. Khi đồng tiền kiếm được đã có vẻ vô nghĩa, thì mọi sự gọi là biết điều, đứng đắn cũng vô nghĩa nốt. Trong mỗi con người dễ dàng nảy sinh một thứ hư vô tự phát, tức cho phép mình làm bất cứ việc gì miễn có tiền, và trong lúc chưa có tiền theo ý muốn, dễ rơi vào học đòi, buông thả.

Xin nhắc lại một lần nữa rằng sự tồn tại của đám người nhập cư tự do nói ở đây là một thực tế, và hình như đội ngũ của họ ngày mỗi đông đảo thêm, không cách nào ngăn cản nổi… Bây giờ, không ai còn nghĩ là chỉ cần dồn họ lên xe chở về quê hương là xong chuyện! Nhưng trong khi chấp nhận họ, người ta lại dễ rơi vào cực đoan khác là phẩy tay mặc kệ, không cần biết họ ăn ở ra sao. Mà cái lối mặc kệ ấy, sau rốt sẽ dẫn đến những tai vạ chung như thế nào, đấy là điều ai cũng đoán ra dễ dàng.

Về phần mình, điều đề nghị của chúng tôi ở đây đơn giản là xã hội phải thật sự quan tâm tới họ, và trước khi thi hành bất cứ biện pháp cụ thể nào, hãy suy nghĩ thêm về họ, đặt mình vào địa vị họ để thông cảm. Nên nhớ đám người này chỉ có hai hướng phân hóa.

Một là “gá lắp” mãi cũng thành công, sẽ từ đường vào nhà, từ các quán trọ tiến dần lên định cư trên phố, thành dân đô thị thứ thiệt.

Hai là quay trở lại nông thôn, và trước mặt bà con quê nhà, được coi như những con người từng trải, nhiều khi còn đóng vai trò khơi mào cho mọi thay đổi sẽ diễn ra ở nông thôn.

Bề nào mà xét thì họ cũng là một bộ phận cư dân quan trọng trong lòng xã hội hiện đại.

TRONG VÒNG VÂY CỦA HÀNG RONG

Cuối một cuốn sách miêu tả các thứ văn chư­ơng dân gian tồn tại trong các đô thị phong kiến còn sót lại ở Việt Nam từ thế kỷ XIX, một ngư­ời Pháp là Nordéman không quên ghi lại những tiếng rao mà ông ta nghe được trên phố ph­ường Hà Nội: Tiếng rao của các hàng rong. Gần hơn để hình dung loại chợ di động này, chỉ cần nhớ lại Nguyễn Đình Lạp với tập phóng sự Ngoại ô hoặc Thạch Lam với tập tạp văn Hà Nội băm sáu phố ph­ường. Hàng rong đã tồn tại trên đất nư­ớc này từ bao giờ không biết nữa, và ng­ười ta thật khó tư­ởng tư­ợng ra cái gọi là những vùng đô thị của ta, nếu thiếu đi bư­ớc chân của những ng­ười bán hàng bán rong kéo lê qua các phố.

Song có lẽ chư­a bao giờ, Hà Nội tràn ngập hàng rong như­ bây giờ. Hàng rau tư­ơi, hàng hoa quả, hàng quà bánh kiểu các loại xôi, bánh giày giò chả, các loại chè cháo thì xư­a nay vẫn có. Như­ng bao loại mặt hàng mới vừa đư­ợc bổ sung. Dân đánh giày đồ nghề trông gọn lỏn. Ngư­ời bán vải vừa đeo vừa bế hàng chục thứ vải trên tay. Trư­ớc những ngày lễ như­ rằm tháng bảy chỗ nào cũng thấy những quảy hàng mã cồng kềnh. Ngư­ợc lại cô hàng trứng tráng lá mơ trông gọn ghẽ thế như­ng lúc ngả ra có cả một cái bếp di động. Trên những đường phố tấp nập bỗng thỉnh thoảng thấy cái gì lù lù như­ chiếc xe tăng. Thì ra một chiếc xe bốn bánh trên treo, buộc, mắc hàng lô quần áo hoặc chồng chất các loại đồ nhôm đồ nhựa, ngư­ời bán hàng mặt lút đi giữa đống đồ hàng đến mức không trông thấy đ­ường và chỉ còn có cách đi thật chậm để vừa khỏi đâm đổ vừa… chờ ng­ười mua.

Cái cách bán hàng thời nay cũng mới mẻ lắm, mới mẻ theo nghĩa tự nhiên bất cần đời và bất cần cả phép vệ sinh. Những bà hàng nửa quê nửa tỉnh xảo thịt cắp nách ai gọi cân ngay và nhất là ngả thớt xuống chặt sườn cho khách chan chát. Hoặc như­ các bà hàng cá đánh vảy moi ruột cho khách ngay d­ưới chân dòng người tấp nập qua lại.

Hàng rong không chỉ dừng lại trên vỉa hè, hàng rong đang tràn xuống cả đ­ường vốn dành cho xe cộ. Các bác bán rắn bán cóc th­ường chỉ có một cái rọ buộc sau xe đạp trông thật ung dung. Các ông bán đồ tạp hóa, xích chó, keo dính chuột, có một đặc tính chung là th­ường kèm theo loa mở nhạc oang oang ai điếc tai mặc kệ. Cũng trong xu hư­ớng bành tr­ướng dành đư­ờng của xe cơ giới, có một dạo tôi thấy cả những ngư­ời chở giư­ờng xếp đi dạo và gần đây một loại hàng rong mới – các loại ngư­ời đi sau những chiếc cột to lù lù, cột có bánh xe đẩy và khi đứng lại, có thể vừa cân vừa đo chiều cao cho các loại khách.

Một trong những thay đổi trong cuộc sống hiện nay là nhiều sự vật như­ đư­ợc định nghĩa lại. Đư­ờng và vỉa hè cũng không tránh khỏi số phận đó. Vỉa hè là gì? Sách ghi: Phần chạy dọc theo hai bên đư­ờng phố thường đư­ợc xây lát, dành riêng cho ng­ười đi bộ. Như­ng tôi tưởng ai đến Hà Nội hôm nay đều dễ có trong đầu một định nghĩa khác. Với dân mặt tiền của các đư­ờng phố, đó là phần mềm của diện tích sinh sống cũng tức là nơi ngư­ời ta tự dành cho mình quyền bành tr­ướng nếu nhà quá chật. Là nơi bắc hỏa lò đun nấu. Nơi cơi nới cửa hàng. Nơi cởi trần trò chuyện những ngày hè oi bức, và nếu vừa ẵm bọn trẻ sơ sinh vừa trò chuyện, thì đó cũng là nơi cho chúng xi tè vừa khỏi mất thì giờ, vừa thoáng đãng. Thời gian gần đây thì đó lại là nơi để xe, nơi tiếp khách. Riêng với hoạt động tấp nập của các hàng rong, nay vỉa hè còn mang một ý nghĩa mới: đó là nơi mua bán hàng, bao gồm mời mọc, ­ướm thử đồ dùng định mua, nói thách, mặc cả, sau hết rút ví trả tiền, hoặc sừng sộ cãi nhau nếu cuộc mua bán không trót lọt. Với hàng rong, cả Hà Nội biến thành một cái chợ, trư­ớc tiên là ở các khu phố mà chúng ta hay gọi là phố cổ.

NỖI NIỀM NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ

VẮNG VẺ GA XÉP

Từ khi chuyển sang kinh thế thị trường, báo chí – sách vở phát hành chủ yếu ở các đô thị, các bài viết phần lớn cũng xoay quanh sinh hoạt văn hóa ở các đô thị ấy; còn như ở các tỉnh xa, người ta đọc gì, xem gì, nghĩ về truyền thống quá khứ ra sao… chúng ta được biết hơi ít. Thế nhưng không phải vì thế mà đời sống văn hóa tỉnh lẻ không có những nét đáng chú ý. Trong chừng mực nào đó, chính nó lại cho thấy đặc điểm chung của sinh hoạt văn hóa trong cả nước.

Trong mấy lời Cùng bạn đọc mở đầu cho cuốn Âm nhạc cổ truyền Quảng Trị, nhà văn Xuân Đức – hiện kiêm nhiệm cả giám đốc Sở văn hóa thông tin lẫn Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị – có viết: “Đất này chẳng biết ngẫu nhiên hay định mệnh, đã trở thành phên dậu của nhiều đời biến động giang sơn. Ba lần từng là thủ phủ quốc gia, nhưng mà chỉ thủ phủ tạm thời khi chưa xây dựng được cơ đồ, khi lâm chung, hoạn nạn. Rồi ra, cố đô vẫn về nơi đô hội, đất này lại thành ga xép hoang sơ”.

Vậy là cái ý niệm tỉnh lẻ, ga xép với con người ở đây là một cái gì tự nhiên, thấy thân phận mình như vậy thì nhận vậy, không chút mặc cảm. Đây cũng là điều kiện dễ dàng cho người từ xa tới, muốn nhìn nhận đời sống văn hóa Quảng Trị với tất cả những mục tiêu gần lẫn mục tiêu xa của nó.

Đơn sơ, uể oải, chậm chạp…

Buổi đầu đến với thị xã Đông Hà, khi tôi ngỏ ý muốn được ghé thăm một hiệu sách nào đó thì anh bạn Lê Đức Dục – phóng viên của Tuổi Trẻ thường trú ở Quảng Trị – gạt đi ngay: “Hiệu sách ở đây không có gì đâu anh. Toàn sách giáo khoa với các loại sách hàng chợ nhì nhằng. Có muốn tìm sách hay, tôi đều phải vào Huế hay ra Hà Nội”.

Tôi hơi cảm thấy hụt hẫng, nhưng rồi cũng tự trấn an ngay được: chắc là thế! Mấy hôm nay, ngồi trên xe nhìn phố xá, chỉ thấy lác đác tiệm vàng, tiệm ăn, tiệm chữa xe, với lại trụ sở các cơ quan nhà nước. Chứ đâu có nhìn thấy hiệu sách. Chắc nó lẩn khuất ở một góc vắng nào đó.

Ghé vào bưu điện, hỏi mua một số báo tuần ra ngày thứ ba, tôi có thêm một “thực tế” nữa: mặc dù giá gốc có 1.800 đồng, ở đây tôi phải trả 2.500 đồng. Tự nghĩ: chắc là người mua hơi ít nên bưu điện phải thu lãi vậy mới bõ công phát hành(!).

Một mẩu chuyện khác, cũng liên quan đến Dục: tuy làm việc nhiều trên Đông Hà, nhưng gia đình riêng của anh ở thị xã Quảng Trị cũ. Khoảng cách đôi bên là 13km. Với một chiếc xe Honda tàng tàng, anh đi về thường xuyên. Và để giúp tôi có ý niệm về không khí uể oải nơi đây, anh kể thêm: “Báo của tỉnh đặt trụ sở trên Đông Hà. Nhưng báo ra hôm trước thì chiều hôm sau mới xuống tới dưới này. Đi mất gần hai ngày!”.

Không rõ từ thị xã xuống đến các huyện báo còn đi mất bao lâu, trong khi nó là phương tiện thông tin chính thức của lãnh đạo tỉnh trong việc chỉ đạo các cơ sở (khi tôi hỏi một cán bộ xã Gio Việt về tình hình sách báo tới xã ra sao, thì anh cho biết: cũng chỉ có Báo Quảng Trị).

… nhưng vẫn giữ được nhịp sống văn hóa bình thường

Đã từng đến với một vài địa phương loại ga xép, nên những chi tiết trên đây đã thành quen với chúng tôi. Đời sống văn hóa ở những vùng như thế vốn quá khó khăn, có ai còn lạ. Cho đến nhiều nơi làm kinh tế có hiệu quả, người đi người về tấp nập, thì phố xá cũng chỉ lập lòe ẩn hiện một ít ánh đèn từ các cửa hàng karaoke, chứ nhìn kỹ đâu có gì hơn! Thà sự hoang vắng cứ trần trụi thế này lại hóa dễ chịu.

Vả chăng, trong cái bình lặng nơi đây vẫn có những điểm đáng mừng: mấy hôm chúng tôi tới, cũng là thời gian lưu diễn của đoàn kịch nhà hát Tuổi Trẻ – Hà Nội tại Đông Hà. Có mấy cái apphich quảng cáo cho các vở Quỉ nhập tràng Bến bờ xa lắc, mà, theo lời của một cán bộ địa phương, hết cả chỗ dán, nhiều quãng hang cùng ngõ hẻm phải dán liền mấy cái mới hết. Bù lại, các tối người đến xem còn đông, đâu ngồi gần kín rạp hát chính của thị xã.

Trong số những hoạt động làm nên cái nhịp sống đều đều của văn hóa Quảng Trị, nhà văn Xuân Đức cho biết: tạp chí Cửa Việt vẫn ra thường xuyên; tỉnh có đoàn kịch, vẫn sống tạm được. Và trong những năm qua, một số cuốn sách đã được biên soạn: Văn học dân gian Quảng Trị (tập I), Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Trị, Âm nhạc cổ truyền Quảng Trị.

Địa đạo Vĩnh Mốc và Thành cổ là những di tích đã được đầu tư trùng tu lại để trở thành những địa điểm lịch sử đáp ứng nhu cầu khách trong, ngoài nước đến tham quan. Các di tích khác cũng đã có dự án chờ phê duyệt.

Ấy là không kể, một việc lớn của ngành văn hóa Quảng Trị, là giúp các cơ sở xây dựng làng văn hóa. Văn hóa trong trường hợp này, không chỉ có nghĩa “cờ đèn kèn trống”, mà đã đi vào cái lõi của đời sống. Đầu tháng 9-1997, tỉnh mở hội thi “làng văn hóa, gia đình văn hóa” lần thứ nhất.

Những của chìm chờ… nơi trưng bày

Có dịp dự lễ khánh thành Nghĩa trang đường 9, bọn tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra bóng dáng các cụ già đầu đội khăn xếp, mặc áo dài đen, tay cầm ô, từ các làng xóm quanh Đông Hà đi bộ tới để có mặt trong buổi lễ long trọng. Trong khi ở nhiều làng xóm ngoài đồng bằng sông Hồng, loại “quốc phục” này đã rất hiếm hoi, thì ở đây như các cụ cho bọn tôi biết, vẫn là một cách ăn mặc không có gì phải ngại ngùng. Hình như chính ở những miền đất xa xôi, con người ta lại có sự hoài cổ chính đáng hơn ở các khu vực vẫn coi mình là trung tâm? Lịch sử đi dần vào phía nam cũng đồng thời là lịch sử giữ gìn và hoàn chỉnh cá tính văn hóa của cả dân tộc.

Ở một tầng sâu hơn nữa, người ta bắt gặp trong lòng đất Quảng Trị những hiện vật của các nền văn hóa thời tiền sử. Và trước khi nảy nở rực rỡ ở Mỹ Sơn, Đồng Dương, thuộc các tỉnh bên kia đèo Hải Vân, nền văn minh Champa cũng đã để lại dấu ấn của những bước đi cụ thể trong lòng đất các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong… Các nhà nghiên cứu đã xác định rằng nơi đây từng có đủ các loại hình di tích như đền tháp, thành lũy, mộ táng. Lạ nhất là một số nơi còn giữ được hệ thống các công trình dẫn thủy cổ, các loại giếng vừa phục vụ cho sinh hoạt, vừa dùng để tưới tiêu cho ruộng mà người Chăm đã dựng nên theo những nguyên tắc khác hẳn người Việt. Tuy đơn sơ hơn, nhưng các hiện vật thuộc văn hóa Chăm tìm thấy ở Quảng Trị cố nhiên có tuổi đời cao hơn hẳn, so với những hiện vật cùng loại tìm thấy ở các nơi khác.

Thế nhưng khi hỏi đến nơi trưng bày các hiện vật thì… có nhiều điều đáng buồn.

Khoảng năm 1973, khi Đông Hà trở thành thủ phủ của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, một nhà hát ngoài trời (kiểu nhà hát Nhân Dân cũ ở Hà Nội) được dựng lên. Gần 1/4 thế kỷ trôi qua, nay khu khán giả trở thành bãi cỏ hoang, còn trơ lại phía trên cái sàn diễn, với hai bên cánh gà có mái che, giờ ngăn ra làm mấy phòng nhỏ. Các cán bộ của Sở Văn hóa thông tin Quảng Trị đã dẫn tôi tới đây để giới thiệu không phải một di tích cũ, mà là nơi làm việc tạm thời của Bảo tàng Quảng Trị.

Thì ra, trong qui hoạch chung của thị xã, người ta quên mất nhà bảo tàng, và nay thì đặt vào đâu cũng không tiện, âu là bảo tàng, với tất cả những hiện vật đã nêu ở trên – hiện vật khảo cổ có, các loại đồ đá của người Chăm, các loại tiền cổ, cùng các di vật lịch sử cách mạng khác – tạm qui tụ về nơi sàn diễn của cái nhà hát cũ này vậy.

Niềm tự hào từ những người ra đi

Nói đến một vùng đất văn hóa phải nói tới những người làm văn hóa lớn lên ở vùng đất ấy. Về phương diện này, có lẽ Quảng Trị không thua kém mọi địa phương khác. Chỉ có điều tiếc, người ở lại với Quảng Trị không mấy.

Ở một quán ăn thuộc loại thanh lịch của thị xã, tôi và Dục gặp một cán bộ giảng dạy lịch sử văn học, vừa tu nghiệp ở Mỹ mấy năm trở về. Nhưng ông chỉ ghé thị xã chơi một hai ngày, còn nơi làm việc chính của ông là Huế. Cũng theo lời anh em kể, ở đây có một cán bộ thư viện rất giỏi, chuyên gia về các địa danh cổ ở Quảng Trị. Nhưng ông chỉ đến làm việc ở Quảng Trị, rồi lại về Huế. Và cả chủ tịch Hội Văn học – nghệ thuật Quảng Trị, một trí thức nổi tiếng, cũng đang ở Huế nốt.

Khó lòng kể hết những người con tài ba, giỏi giang của Quảng Trị hiện nay đang ở nơi khác. Và ngày hôm nay, dòng người ra đi đó vẫn đang được bổ sung. Trần Thanh Hà, cô giáo dạy văn của Trường Lê Quí Đôn, vừa được nhắc nhở nhiều sau khi đoạt giải nhất trong cuộc thi “Sáng tác văn học cho tuổi trẻ” và tập truyện ngắn Gió của mùa sau, đã chuyển về Hà Nội công tác. Như trước đó, Nguyễn Quang Lập đã chuyển, và cũng lúc này nhà thơ Lê Thị Mây cũng đã xong thủ tục để ra đi. Nghĩ đến những người bạn Quảng Trị đang sống và làm việc rải rác khắp nơi, trong tôi thoáng qua một tình cảm lẫn lộn, vừa vui vì đóng góp của Quảng Trị vào đời sống văn hóa cả nước, vừa hơi buồn buồn vì cảm thấy một cái gì giống như là… thân phận tỉnh lẻ.

MUỐN ĐẾN VỚI NGƯỜI PHẢI TỰ HIỂU MÌNH

Thoạt nhìn có vẻ nghịch lý nhưng có một điều người ta quan sát thấy ở lịch sử nhiều nước là mỗi khi đất nước ấy khao khát “hội nhập với thế giới”, “muốn làm bạn với năm châu” thì cũng là lúc trong lòng người dân của đất nước đó lại nảy sinh cái cảm giác mãnh liệt là muốn tìm hiểu lại đất nước mình, nền văn hóa của chính mình. Sức lôi cuốn càng mạnh thì sức cưỡng lại cũng càng lớn, tạo nên một tình thế đối trọng thú vị do đấy, sự vật (ở đây là mỗi đất nước) mới tồn tại và phát triển.

Trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX, ít nhất đã có hai lần xảy ra tình trạng song hành nói trên. Lần thứ nhất gắn liền với công cuộc Âu hóa, kéo dài trong nửa đầu thế kỷ XX. Mặc dù diễn ra trong một hoàn cảnh không bình thường – là sự có mặt của chế độ thực dân Pháp – song khách quan mà xét, đây vẫn là một dịp xã hội Việt Nam có nhiều đảo lộn theo hướng cả một mô hình văn hóa được du nhập để dung hợp với văn hóa bản địa, tạo dần nên một tình thế ổn định.

Và lần thứ hai chính là mươi mười lăm năm gần đây, khi mà nói chung, sau cuộc trường chinh giành độc lập, dân tộc bước vào giai đoạn xây dựng trở lại.

Trước mắt chúng ta, hiện đang diễn ra một cuộc kiểm kê dần dà toàn bộ di sản văn hóa. Và những bàn luận sôi nổi về vai trò của văn hóa trong phát triển thì gần như kéo dài vô tận, mặc dù còn rất lâu những công việc nói trên mới đạt được cái tầm vóc cần thiết, và có được kết quả thực sự, như đáng lẽ chúng phải có.

Khi sự thức tỉnh trở thành phổ biến

Một điều có thể nhận xét ngay là đồng thời với việc nghiên cứu tìm tòi của giới trí thức chuyên môn, phong trào trở về nguồn cũng đang gợi ra cảm hứng cho đông đảo những người bình thường. Được đánh thức bởi cách mạng và kháng chiến, từ mấy chục năm nay, cả những vùng đất hẻo lánh, những miền quê xa xôi cũng đã thức dậy hòa chung với nhịp sống của cộng đồng. Với sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông hiện đại, nay là lúc người ta càng thấy cần phải làm tất cả để chứng tỏ sự có mặt của mình trong xã hội. Mỗi miền đất một sắc thái, mỗi vùng quê một lai lịch riêng, một phong tục tập quán riêng – cái điều dường như đương nhiên đó, nay được người ta nhận thức đầy đủ hơn, để rồi tìm đủ mọi cách tô đậm thêm. Và cả cộng đồng thì năng động hẳn lên. Vùng này muốn biết thêm về vùng kia, thời kỳ này trong lịch sử được mang ra soi dọi đối chiếu với thời kỳ khác. Ngoài ra, mọi việc còn được làm với một thỏa thuận ngấm ngầm: Cái sự ta phải biết thêm về ta, chính là một tiền đề không thể thiếu để thực hiện cái ao ước hiện cũng đã manh nha, trong lòng nhiều người, cái ao ước mà chỉ con người Việt Nam thế kỷ này mới có quyền nghĩ: “Ta phải biết thêm về thế giới”.

Những cuốn đầu tiên của tủ sách đất nước học

Chưa bao giờ du lịch được nhắc nhở và thực hiện rộng rãi như bây giờ.

Thăm thú lại đất nước trở nên một khao khát khôn nguôi cùng lúc chi phối những hạng người khác nhau, từ người cán bộ về hưu, chỉ đi tham quan tập thể, trên những chiếc xe hàng cũ kỹ, đến những Việt kiều, vừa đáp Boeing trở về, và có thể sáng ở TP. Hồ Chí Minh chiều đã bay ra Hà Nội.

Thế nhưng không phải bao giờ những chuyến du lịch ấy cũng diễn ra dễ dàng.

Ngay cả khi ngồi trên xe du lịch rồi, người ta vẫn cần có sự hướng dẫn của người khác, từ một tấm bản đồ, đến những tri thức cơ bản về cái vùng đất mà mình sẽ đặt chân tới.

Huống chi trong những trường hợp lý tưởng những quyển sách viết tốt, những thước phim quay có chất lượng còn có thể phần nào đó, giúp cho người ta làm quen với những gì không thấy được tận mắt.

Loại sách giới thiệu đất nước, con người Việt Nam cũng như các loại phim truyền hình, phim tư liệu, kiểu Du lịch qua màn ảnh nhỏ ra đời, là để đáp ứng nhu cầu đó.

Sau đây là những tên sách mà giới nghiên cứu và phổ biến kiến thức về đất nước và con người Việt Nam nói chung cũng như các nhà nghiên cứu về từng địa phương đã cho công bố:

Loại sách giới thiệu tổng quát: Thiên nhiên Việt Nam, Việt Nam đất biển trời, Đất nước ta, Biển và đảo Việt Nam…

Loại sách miêu tả về một vùng đất: Tây Nguyên, thiên nhiên và con người; Xứ Trầm Hương; Cố đô Huế, Di tích, lịch sử, thắng cảnh; Cố đô Huế: bí mật và khám phá; Hào khí Đồng Nai; Nghệ Tĩnh hôm qua và hôm nay; Tỉnh Mường Hòa Bình (cuốn này của một người Pháp viết từ trước 1945 nay mới được in lại). Cũng thuộc loại sách “đất nước học” này còn có các tập sách mang tính cách kiến thức tổng hợp, gọi là các địa chí. Nhiều tập đã được hình thành: Địa chí Hải Hưng, Địa chí Hà Bắc, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Địa chí văn hóa dân gian Hà Nội, Địa chí Long An v.v…

Vai trò của các nhà văn

Lạ một điều là cho đến nay loại sách giới thiệu về các vùng đất như thế này còn chưa có sức lôi cuốn với các cây bút chuyên về sáng tác văn học. Số người dành hẳn công sức tìm hiểu và viết về vùng quê của mình hoặc vùng đất mình thông thạo, số người tham gia vào các công trình địa chí nói trên còn hơi ít. Có điều, mỗi khi có mặt, họ đều để lại những trang viết độc đáo. Trong số những nhà văn nhà thơ, nếu ở lớp trước, có thể ghi nhận: Hoàng Đạo Thúy, Quách Tấn, Tô Hoài, Sơn Nam… thì ở lớp người trẻ hơn, người ta hay nói tới Võ Văn Trực và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Võ Văn Trực được biết tới qua Câu chuyện những dòng sông, Chuyện làng năm ấy. Hoàng Phủ Ngọc Tường khá thành công trong Rất nhiều ánh lửa cũng như Hoa trái quanh tôi. Nhân đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Hoài nhận xét: “Nếu có thể so sánh, thì tôi nghĩ rằng Sơn Nam thuộc đến ngóc ngách những sự tích xưa sau của Sài Gòn – Bến Nghé, tôi thì nhớ được ít tên đất tên làng vùng Hà Nội, Hoàng Phủ Ngọc Tường thì trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời sông nước xứ Huế”.

Hẳn những vùng đất khác đều đang đợi những Sơn Nam, Tô Hoài, Hoàng Phủ Ngọc Tường của mình!

Và bạn đọc trong nước, cũng như bạn bè ở nước ngoài thì vẫn chờ đợi một ngòi bút nào đó viết về đất nước con người Việt Nam cỡ như Lâm Ngữ Đường, người đã giới thiệu đất nước Trung Hoa với thế giới qua những cuốn sách nổi tiếng: Nước tôi, dân tôi; Sống đẹp.

SỰ CHUYỂN PHA CÒN DANG DỞ

Mấy nét sơ lược về ý niệm thời gian ở chúng ta hôm nay

Cái đồng hồ của người Việt Nam là tên một bài báo của Phan Khôi in trên Phụ nữ tân văn 1931. Trong bài viết ấy, nhà báo họ Phan cho rằng nhiều người hồi bấy giờ dùng đồng hồ chẳng qua bắt chước người Âu – Mỹ để diện cho đẹp, chứ chẳng mấy khi coi giờ: nói chung, với người Việt Nam đầu thế kỷ XX, thì giờ không phải là chuyện đáng để ý, ai ai cũng một tâm lý cơm vua ngày trời, được đến đâu hay đến đấy.

Thời gian của sự bình lặng, thời gian tính bằng tháng năm

Những nhận xét của ông nhà báo nổi tiếng là gàn bởi hay nói thẳng này không phải là vô lý. Sự bình lặng là đặc điểm chủ yếu làm nên nhịp sống của xã hội Việt Nam thời trung đại và nó cũng còn kéo dài cho đến thời Pháp thuộc. Trong hoàn cảnh một nền kinh tế tiểu nông, sự làm ăn trông chờ cả vào mưa thuận gió hòa, người ta không thể nào có được một thái độ tự giác về thời gian, như ở các nước công nghiệp phát triển. Ngày tháng trôi qua đều đều, hôm qua đã vậy, mà mai đây cũng vậy, năm trước là hình ảnh gợi ý của năm sau. Cảm giác này còn thấy rõ khi đọc lại nhiều tác phẩm văn chương tiền chiến. Chẳng hạn, trong Cô hàng xén, Thạch Lam ghi lại ý nghĩ của cô Tâm. “Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi: chịu khó, chịu khó, từng tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngợi, Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa, tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức như tấm vải thô dệt đều nhau”. Còn trong Hai đứa trẻ, tác giả cũng phác ra cho thấy cả một nhịp sống chậm chạp, con người lấy việc làm theo nếp ngày hôm qua là chuyện tự nhiên. Thời gian đi qua, nó không để lại dấu ấn gì rõ rệt ngoài lời hứa hẹn rằng tương lai vẫn thế.

Xét về tầm vóc lớn lao và mức độ tác động tới xã hội, thì cuộc Cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến tiếp theo là những sự kiến lớn làm thay đổi cả hướng đi của lịch sử dân tộc. Thế nhưng điều kỳ lạ là ở chỗ con người làm nên những biến chuyển đó bằng một tâm lý rất thoải mái. Khẩu hiệu trường kỳ kháng chiến thấm vào tâm thức mọi người. Sự từ tốn bền bỉ được khai thác để chống lại sức mạnh của máy bay trọng pháo. Ngành nào cũng có những người đi bộ hàng tháng trời từ khu Bốn, khu Năm ra Việt Bắc họp, rồi lại đi bộ hàng tháng trời trở về công tác bình thường. Thời gian lúc ấy hình như tính bằng năm tháng chứ không tính bằng giây phút.

Cho đến thời kỳ chống Mỹ, tâm lý đó vẫn còn phổ biến. Tôi nhớ có lần cánh phóng viên chiến trường bọn tôi từ mặt trận B5 qua trạm T.70 miền Tây Vĩnh Linh đi bộ ra Hà Nội. Chúng tôi hoàn toàn hiểu rằng đoạn đường mà sau này tính lại, đi mất gần một tháng – cánh lái xe giỏi chỉ đi trong một ngày.

Và để quên đi những mệt nhọc trên đường, chỉ còn có cách đùa bỡn:

– Gớm cái “nước” Quảng Bình này rộng quá, đi mấy ngày không hết!

– Có lẽ tới đây cũng phải mất từng ấy ngày để qua “nước” Nghệ An rồi mới sang “nước” Thanh Hóa.

Có một lý do khiến cho ngày ấy, không ai cảm thấy sốt ruột: ai cũng tính được là có về đến Hà Nội thì vẫn sống theo một nhịp điệu nhẩn nha như vậy. Đại khái xếp hàng mua gạo cho gia đình mất cả buổi sáng là chuyện thường tình, mà nếu không xếp hàng thì cũng chỉ ngồi họp hoặc đọc báo. Hà Nội hồi những năm chiến tranh và cả chục năm sau đó là một thành phố rất thanh vắng, xe bò còn là phương tiện vận tải được phép lưu thông ngay trên một số phố chính, và những đôi tình nhân có thể đạp xe thong thả trò chuyện với nhau trên đường mà không sợ làm phiền đến ai cả.

Quả thực, giờ đây nghĩ lại, bên cạnh một thoáng cười mỉm về cái thuở ấu trĩ đã qua, nhiều người vẫn không khỏi thèm nhớ sự thanh thản không biết vội của thời ấy.

Thời gian nay là tiền bạc; hối hả, chụp giật, nhưng…

Bởi vì, từ hơn chục năm nay, cuộc sống đã trở thành khác. Một nhịp điệu khác hình thành. Và một ý niệm khác chi phối. Báo chí đưa tin Việt Nam trở thành một trong những nước tiến nhanh nhất trong việc tăng số máy điện thoại trên đầu dân. Nhìn ra ngoài đường, vai trò của cái xe đạp hôm qua nay thuộc về cái xe máy mà tốc độ, trên lý thuyết, có thể gần ngang với ô-tô. Không chỉ khách nước ngoài phàn nàn, mà cả người trong nước, nhất là những người già, cũng đang e ngại về nỗi xe máy ở ta đi cả trên vỉa hè và thường phóng nhanh đi sát tới chỗ gây tai nạn. Ở nhiều ngã tư rất dễ bắt gặp cảnh xe máy cố vượt lên khi tín hiệu đèn đỏ đã bật: với nhiều người, chưa bao giờ thời gian trở nên bức xúc như bây giờ! Từ chỗ là một thứ của kho vô tận và thuộc về mọi người, như khí trời, như nước sạch, nay thời gian đã trở thành một thứ sở hữu cá nhân, nó được ý thức như một giá trị to lớn và là ngọn nguồn của mọi giá trị khác. Cái câu cổ nhân xưa từng nói thì giờ là tiền bạc, nay nhiều người mới thật thấm thía.

Tuy nhiên, sẽ là vội vàng nếu như nói rằng một ý thức hoàn toàn mới về thời gian đã ngự trị. Tốc độ cho phép của xe máy lên tới 50-60 km, nhưng ở thành phố, xe chỉ chạy khoảng 20-30km gì đấy. Từng người cố đi nhanh nhưng sự vận động của cả khối người trên đường chẳng hơn xưa là bao. Vả chăng nhiều người phóng xe máy như điên, chẳng qua chỉ cốt để kịp có mặt trong một bữa nhậu, hoặc một buổi họp nhạt nhẽo, và giá theo dõi một thanh niên luồn lách trên đường, vượt cả đèn đỏ ngã tư, lát sau sẽ thấy anh ta ngồi hàng tiếng đồng hồ trong quán karaokê. Sự chuyển pha còn dang dở: hiểu rằng thời gian là quý nhưng làm sao để biến thời gian ấy thành giá trị thực sự, nhiều người vẫn không biết. Đang thấy thịnh hành ở cả giới buôn bán lẫn giới lao động trí óc (chẳng hạn, các nhà sáng tác văn chương hoặc các cán bộ nghiên cứu khoa học) một lối làm ăn tạm gọi là chụp giật. Hàng ngày chơi dài, chỉ thỉnh thoảng mới bắt tay vào việc, song đã làm là tốc chiến tốc thắng, làm ù một cái cho xong. Hãy nhớ lại thời xưa, có những người cả đời chỉ theo đuổi một công việc chuyên môn nào đó, và họ kiên trì làm đến cùng. Có cảm tưởng như họ cầm nắm được thời gian, cảm nghe được sự liên tục của nó, biết hướng mình sống hòa thuận với nó. Nói như cách nói của sách vở: họ tin rằng thời gian ủng hộ họ. Cảm giác ấy, niềm tin ấy, nhiều người ngày nay không có!

Thời gian và đời sống tinh thần của xã hội

Nếu như ở mỗi cá nhân, ý niệm về thời gian chủ yếu liên quan đến việc sử dụng ngày tháng sao cho hữu hiệu, thì xét ở phạm vi cộng đồng, điều này chủ yếu bộc lộ qua ý niệm về quá khứ hiện tại và tương lai mà cộng đồng đó đã và sẽ sống, từ đó toát lên quan niệm về sự phát triển của bản thân cộng đồng trong quá trình lịch sử. Đây là một vấn đề quá lớn, trong phạm vi của mình, chúng tôi chỉ xin nêu một nhận xét nhỏ: với người Việt hôm nay, thời gian vẫn đang được đơn thuần xem như một sự kéo dài liên tục, hiện tại là sự kéo dài của quá khứ, và tương lai là sự kéo dài của hiện tại. Quá khứ chỉ được xác định một lần và cứ thế mãi mãi tồn tại. Trong đời sống tinh thần chung của xã hội, cả quá khứ gần (thời chống Pháp chống Mỹ) lẫn quá khứ xa xưa (thời Hùng Vương hoặc thời Lý Trần) luôn luôn có mặt, nó đem lại cho hiện tại vừng hào quang sức nặng và lòng tự tin và nó sẽ là nhân tố chủ yếu quy định tương lai.

– Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa,

Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường.

Chế Lan Viên

Chính trên cái mạch nghĩ chung ấy, quá khứ thường được hình dung bằng những phạm trù giống như hiện tại, và nếu như trong các sáng tác văn nghệ, những anh hùng dân tộc trong quá khứ có suy nghĩ nói năng hệt như con người thế kỷ XX thì cũng là điều dễ hiểu.

“Khó mà tìm được một tiêu chí khắc họa đầy đủ bản chất của văn hóa, như khái niệm thời gian. Trong khái niệm ấy, thấy thể hiện đầy đủ cảm quan của thời đại về thế giới, hành vi và ý thức của con người, nhịp điệu của cuộc sống”. Một nhà nghiên cứu văn hóa người Nga, ông A.Ju.Gurevich trong cuốn Những phạm trù văn hóa trung thế kỷ đã rất có lý khi viết như vậy. Do chỗ ý niệm về thời gian liên quan đến văn hóa, nên chúng ta hiểu tại sao nhiều người nước ngoài đến Việt Nam có ngay nhận xét về cách sử dụng thời gian của người Việt. Xu hướng chung ở đây là họ – nhất là người ở các nước Tây Âu – tỏ ra khó thích ứng với cái kiểu tùy tiện “gặp đâu hay đấy”, “nước đến chân mới nhảy” của chúng ta. Nhưng gần đây, cũng đã bắt đầu thấy có xu hướng ngược lại. Một họa sĩ người Đức kể lại rằng lúc đầu mới học làm sơn mài, bà thấy quá nặng nhọc vì phải kiên nhẫn chờ đợi và đặc biệt phải nhạy cảm với những thay đổi bất ngờ của màu sắc. Mãi sau bà mới phát hiện: qua quá trình lao động khá đơn điệu đó, bà có điều kiện để “thấy thời gian thực sự là hiện hữu”. Đi xa hơn một bước nữa, người phụ nữ này còn lấy cách nhìn của người Việt Nam hiện thời để quay lại đánh giá cách sử dụng thời gian ở phương Tây. Bà tâm sự: “Sau khi được sống trong một cuộc sống đầy màu sắc sinh động ở Hà Nội, chúng tôi cũng cảm thấy sẽ có phần nào tẻ nhạt nếu trở lại những thành phố quê hương với lối sống quá công nghiệp, quá khắc nghiệt về thời gian. Ở đó thậm chí chúng tôi chẳng có đủ thì giờ quan tâm tới cái chết của người thân quen nữa”. (xem báo Thể thao và văn hóa, số ra 24.11.2000).

Qua người mà hiểu mình, cái quy luật có tính chất chủ đạo ấy trong nghiên cứu văn hóa lần này lại được chứng nghiệm. Chép lại mẩu chuyện này ở đây, chúng tôi chưa dám nói ngay rằng nhận xét của người họa sĩ kia đã chính xác hay chưa mà chỉ nhằm lưu ý là chúng ta cần phải lắng nghe, phải đối chiếu so sánh rất nhiều, phải biết thêm những cách nhìn khác về chính mình, thì mới đi tới chỗ tự nhận thức một cách chính xác. Trên báo Ngày nay số ra 12.9.1937, nhà văn Thạch Lam trong một bài báo ngắn, sau khi kể lại rằng một người Pháp rất khen tục thờ cúng ở ta, đã nói thêm “cái đó là tùy ông thôi, còn chúng tôi, chúng tôi thấy chúng tôi quá trọng người chết, quên hẳn mất việc sống (…) chen chúc nhau mà chết đói chứ không chịu đi đến những nơi khác để chen vai thích cánh với người ta”. Ở đây, vượt lên trên câu chữ cụ thể, Thạch Lam cho thấy là trước một sự việc có thể có nhiều cách nghĩ khác nhau, chứ không phải chỉ có một cách duy nhất.

NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ HAY LÀ
NHỮNG ÔNG ĐỒ GIỮA CHÚNG TA

Ở Bắc bộ, những ngày rét đậm, mưa bụi bay trời đất lâng lâng một vẻ lạnh lẽo, dịu dàng và thấm thía, chính là những ngày gợi nhớ đến Tết hơn cả. Lo Tết như thế nào đây? Phải có cái gì để ra vị Tết bây giờ? Mỗi người, kể cả những người sắt đá nhất, cũng không khỏi có lúc tự hỏi như vậy. Đời sống khấm khá lên thì tự nhiên cái yêu cầu thịt mỡ – bánh chưng xanh – dưa hành không thành mối bận tâm của ai nữa. Người sành sỏi và muốn ăn Tết cho hiện đại còn phải để mắt tới bao chuyện khác. Duy chỉ còn đôi câu đối đó là có chuyện. Đi giữa phố xá đủ loại màu sắc lộng lẫy của hàng hóa hiện đại, người quen Tết theo nếp xưa thường vẫn cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó, ấy là màu đỏ của giấy hồng điều và màu đen óng ánh của mực nho hảo hạng chuyên dành để viết câu đối. Vâng, lớp người có tuổi dễ nhớ như thế lắm. Nhất là khi mấy hàng chữ vuông viết trên giấy thắm gắn liền với hình ảnh một lớp người và một nền văn hóa. Trên đời này có cái gì mong manh yếu ớt hơn văn hóa nhưng cũng có gì lâu dài hơn văn hóa!

Nhắc đến câu đối Tết, nhiều người nhớ ngay đến bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Hình ảnh mở đầu quen thuộc tự nhiên, tưởng như rồi muôn đời vẫn vậy! Nhưng đến cuối bài thơ, tình thế đã khác hẳn:

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ

Bài thơ được in lần đầu vào năm 1936 (trên báo Tinh Hoa). Nó như tiếng chuông gióng lên thời điểm bắt đầu của một quá trình lụn bại. Những tưởng từ đó, các ông đồ chỉ còn trong ký ức.

Nhưng không phải vậy.

Trong trí nhớ của lớp người phần chính trong đời thuộc về thế kỷ XX như tôi, thì ngay hồi Thủ đô còn bị tạm chiếm, hoặc hồi mới hòa bình lập lại, nghĩa là cuối những năm 50, đầu những năm 60, các ông đồ ấy vẫn còn. Trên vỉa hè Hàng Bồ, Hà Nội hoặc các phố lân cận, các ông vẫn ngồi xếp vòng tròn trên chiếc chiếu cạp điều hoặc mài mực, hoặc ngâm nga mấy câu thơ cổ. Dọc theo một sợi dây căng sát tường, đã kẹp sẵn vài đôi câu đối hoàn chỉnh. Mặt hàng có rồi, ai vội lấy luôn. Còn như ai có thời giờ ngồi chờ lấy đôi câu đối ông viết cho mình, đúng hơn là thích được chiêm nghiệm cái không khí thiêng liêng khi một vẻ đẹp được sinh thành, các ông cũng hào hứng chấp nhận.

Nghĩa là lớp người chúng tôi, cũng có những ông đồ của chúng tôi. Sót lại từ thuở Vũ Đình Liên, các ông có thể thưa dần, nhưng không bao giờ hết hẳn.

Khoảng từ cuối những năm 60, đầu những năm 70 trở đi, đến chơi nhà nhiều anh em trong giới văn nghệ vào những ngày Tết, đôi khi người ta vẫn bắt gặp những tờ giấy viết mấy câu chữ nho kín đáo treo ở một góc thành kính. Hỏi ra bao giờ cũng vậy, tác giả của các bức tranh chữ ấy thường không ngoài hai người là ông trạng Hoàng Trung Thông (“ông trạng họ Hoàng” như cách gọi của Chế Lan Viên) và nhà viết kịch giàu chất dân gian Tào Mạt.

Nếu tôi nhớ không nhầm thì lối anh em trong nghề cho chữ nhau được Hoàng Trung Thông khởi xướng trước. Những năm cuối đời, bao chuyện phiền muộn, nhà thơ tìm cách khuây khỏa ở việc uống rượu và cho chữ. Nét chữ Hoàng Trung Thông khoáng đạt tung hoành, có cảm tưởng như khi viết những chữ ấy, Hoàng Trung Thông vừa già dặn nhưng vừa trẻ trung trở lại. Còn Tào Mạt, mỗi phen tha thẩn đến chơi nhà ai, ông cũng thích để lại cho gia chủ ít chữ kỷ niệm. Hóa ra con người dí dỏm và thích đi ấy, lại cũng là một người thâm nho đáo để! Thường thì vừa viết, ông vừa giảng giải thêm cho người sẽ nhận chữ, rằng mấy câu viết đây có nghĩa thế này… thế này… Và người yêu cái phong vị câu đối của ngày Tết có thể sung sướng mà nghĩ rằng mình yêu một, thì người vừa cho chữ mình, còn yêu những dòng chữ ấy mười lần. Và bởi lẽ đó là một tình yêu vô tư không vụ lợi, nên người ta càng biết rằng chỉ có trân trọng, chứ không có cách gì đền đáp nổi.

Cùng với Hoàng Trung Thông và Tào Mạt, tôi nhớ suốt hai cuộc chiến tranh đã có một lớp ông đồ tồn tại. Họ nhận đủ các công tác được giao phó. Trở thành lương y. Dạy học. Dịch sách. Thậm chí làm nhiều công việc không liên quan gì đến nền văn hóa cũ. Bề ngoài, họ mặc áo lính, áo cán bộ. Nhưng để ý kỹ, vẫn thấy ở họ in dấu cái thời niên thiếu được vỡ lòng bằng những con chữ thánh hiền và đến bây giờ, trong tâm hồn họ, vẫn còn phảng phất bóng dáng ông đồ ngày xưa mà họ kính trọng. Nói hẹp trong phạm vi giới cầm bút mà tôi biết, ấy là những Khương Hữu Dụng, Trinh Đường, Vĩnh Mai ở Hội Nhà văn, Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Thiều, Xuân Sách ở Văn nghệ quân đội. Lúc đùa vui, họ vẫn tự xưng hoặc tôn vinh nhau là những đồ Quảng, đồ Thanh, đồ Nghệ (đồ Nghệ đông nhất!). Có một thứ trò chơi, mà chỉ họ thấy hào hứng và dám chơi, đó là làm thơ, hoặc thách nhau họa thơ Hán. Quả là những trò chơi sang trọng mà đám đồ Tây, dù tài trí đến đâu, vẫn phải bái phục. Cũng trong phạm vi những ông đồ còn sót lại và mắc vào cái lụy văn chương, tôi còn thường nhớ đến một người mới mất hồi đầu năm 1994. Tên thật của ông là Đỗ Văn Hỷ, nhưng hầu như tất cả những người quen đều gọi ông là đồ Hỷ. Bởi cả khi vận Âu phục đăng đàn diễn thuyết hẳn hoi thì trong cái dáng mảnh mai, lối nói hơi khô khan, và cái nhìn chăm chú của ông, người ta vẫn nghĩ đến một ông đồ. Ở Viện Văn, nơi ông công tác, Đỗ Văn Hỷ chuyên sưu tầm nghiên cứu quan niệm văn học của ông cha. Cuốn sách duy nhất đứng riêng tên Đỗ Văn Hỷ Người xưa bàn về văn chương, chỉ in ra trước khi ông mất ít lâu. Nhưng số phận đứa con một của ông đồ qua thời đó, cũng không may mắn gì hơn tác giả. Hầu như không ai nhắc nhở đến nó, trong khi ai cũng biết rằng lứa thầy đồ học chữ Hán theo lối các cụ ngày xưa, lứa thầy đồ ấy chỉ còn những người cuối cùng.

Có thể còn nhiều ông đồ khác tồn tại mấy chục năm nay, mà người viết bài này không biết, nhưng sau hết có một ông đồ nữa. Một ông đồ mặc áo cán bộ, mà nếu như không nhắc tới, tôi sẽ rất ân hận, đó là nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn. Mình gầy vóc hạc, nhiều phen vào thư viện ông còn nhai trầu bỏm bẻm. Từ tiếng Pháp đến tiếng Nhật, ông đều sử dụng được. Nhưng phần sâu nặng nhất của Bùi Hạnh Cẩn là chữ Hán. Tuổi ngoại 70, ông vẫn thích đọc và thích viết bằng thứ chữ ông học cùng với Nguyễn Bính khi còn để chỏm.

Mấy năm trước đây, dọc phố Bà Triệu, quãng từ đường Trần Hưng Đạo đến đầu Ngô Văn Sở, có một nhóm nhà nho bày bán những đôi câu đối, bức đại tự viết chữ Hán, Bùi Hạnh Cẩn đấy! Bùi Hạnh Cẩn với mấy người bạn đấu đầu cùng làm, trong cảnh chợ chiều, khai trương ngôi hàng mới. Nghe đâu các ông (hay riêng Bùi Hạnh Cẩn?) còn mang chữ đi triển lãm ở thành phố Hồ Chí Minh và được đón tiếp nồng hậu lắm. Nhưng ở Hà Nội, cửa hàng bán chữ vỉa hè của họ đâu có thọ. Mà làm sao nó thọ nổi! Riêng cái việc chữ ta – tên các cụ xưa gọi chữ Hán – bày ở một phố Tây, đã là sự cám cảnh rồi. Và người ta lại cám cảnh khi nghĩ đến những người bán hàng, cũng là người đại diện cho một nền văn hóa cổ truyền, mà điều đáng cảm phục không phải là ở chỗ nay nó vẫn nảy sinh và dồi dào sức sống, mà ở chỗ thoi thóp mãi, nó vẫn không chết.

THÀNH KÍNH VÀ THUẦN THỤC

Thăm thú Hội An đến ngày thứ hai, buổi chiều hôm ấy, chúng tôi được mấy bạn quen rủ ghé lại một nhà thờ họ. Thành thực mà nói, lúc đầu cũng hơi ngại. Đến thăm nơi này là để ngắm nghía chùa Tàu cầu Nhật, chứ mấy ngôi nhà thờ họ thì đâu chẳng có, tới thăm mà làm gì?! Nhưng chuyện chung quanh ngôi nhà thờ họ ấy cũng rôm rả không kém mấy địa điểm du lịch khác. Tại sao ư? Nói tóm lại là không ở đâu chúng tôi thấy con người ta sống với quá khứ của ông cha hết lòng đến thế. Trong nhà nhiều đồ đạc từ hơn một trăm năm để lại. Đèn sáng vừa đủ để tạo không khí. Và điều thú vị là: Mọi thứ đều có cái bề ngoài rất thực của nó, đại khái bảo đồ cổ thì có thể tin là đồ cổ thứ thiệt, chứ không phải mấy thứ tân thời giả cổ(!). Chẳng những thế mọi vật kỷ niệm còn lại, mấy bức tranh, bộ bàn ghế, cái án thư – đều sạch sẽ thơm tho như vẫn đang được sử dụng, mà người sử dụng thì đúng là những người “cổ lai hy”, nghĩa là có phong thái sống khoan thai từ tốn, chứ không xô bồ ù xoẹ như chúng ta bây giờ. Trong một ngôi nhà dường như cả mấy thế hệ đang sống hòa hợp. Sau hết, sự hiện diện của cô chủ nhà, với những phẩm chất hiếm hoi, kết hợp được cả tình cảm yêu kính ông cha, lẫn một sự hiểu biết lịch lãm. Một mặt cô không giấu diếm tình cảm riêng nỗi quyến luyến của cô với những gì vợ chồng cô được thừa kế. Mặt khác là cái tinh tế trong giao tiếp: Cô biết đặt mình vào địa vị người đến thăm, đón truớc những câu hỏi, ngừa trước những thắc mắc. Và vui vẻ trước mọi kết luận để ngỏ: đấy gia tài ông cha chúng tôi để lại là thế đấy, làm sao chúng tôi không tự hào cho được?

Những sự phản cảm và thế nào là một hành động văn hóa

Từ khi còn ngồi trên ghế trường tiểu học, tất cả chúng ta đã được dạy dỗ rằng tục thờ cúng tổ tiên là một nét đặc sắc trong nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, hẳn là câu chuyện về mấy ngôi nhà thờ họ ở Hội An sẽ không để lại trong đầu óc ấn tượng sâu đậm đến thế, nếu nó không tương phản rõ rệt với cái tình trạng thường thấy mấy năm gần đây.

– Ở nơi này, sự thờ cúng trễ nải qua loa, thấy khách đến chủ nhà mới lôi mấy thứ đồ thờ mốc meo ra phủi bụi, để chứng tỏ tấm lòng “không kém ai” của mình.

– Ở nơi kia, một sự hiểu biết lỗ mỗ kém cỏi, không tương xứng với nỗi niềm tha thiết của gia chủ. Một vài niên đại sai lệch. Một vài địa danh không chính xác… lẽ tự nhiên là phải nghe những lời ba hoa vụng về, người ta dễ nảy sinh ra sự nghi ngại.

– Còn ở một nơi khác nữa, thì lại có tình trạng gia chủ có cái vẻ như là thích khoe, thích làm dáng, vừa khấn vái tổ tiên vừa như là đứng tách ra tự ngắm nghía và phải cố kiềm chế lắm mới không nói thẳng vào mặt khách: Các anh xem, tôi thờ cúng thế đấy, tôi giữ gìn truyền thống thế đấy, bản sắc dân tộc ở tôi đậm đà thế đấy!

Theo những con đường khác nhau, song một khi sự phản cảm đã nảy sinh, thì không cách gì cứu vớt lại được.

Hóa ra, một hành động văn hóa chẳng thể có ý nghĩa như nó phải có, nếu được làm một cách hình thức, thậm chí bôi bác, tùy tiện.

Ngược lại, một công việc nào đó chỉ được xem là một hành động văn hóa thực thụ, nếu ít nhất nó thỏa mãn những điều kiện sau đây:

1. Nó được làm với niềm tin thiêng liêng, người làm việc đó tin rằng mình đang hướng đời sống tinh thần vào một cõi cao đẹp, và đây nhất thiết là một hành động vô tư, không vụ lợi (với tất cả sự đa dạng và những biến thái tinh tế của chữ lợi).

2. Nó được làm một cách thành thực, theo những quy tắc nghiêm cẩn, đã hình thành từ nhiều thế hệ.

Có người sẽ bảo: Vẽ chuyện! Bảo tồn văn hóa là mục đích còn nghi lễ chỉ là cái vỏ, cái bình đựng. Cốt lòng mình có nghĩ tới, còn làm thế nào chẳng được! Song văn hóa vừa vô hình và cao cả tinh khiết, vừa là một cái gì rất cụ thể. Người ta sẽ đọc ra cái thực chất văn hóa của một con người cũng như cả một xã hội ở đâu, nếu không phải qua những thể thức biểu hiện sinh động, những thể thức này không lừa được cảm giác của người chứng kiến.

Thuần khiết và thô lậu

Không phải chỉ đến hôm nay mà từ ngàn xưa, các hành động văn hóa đều đã đòi hỏi được biểu hiện chân thành và thuần thục như vậy.

Với tư cách một cuốn sách ghi lại những nếp sống văn hóa đã trở thành thói quen bền vững của người xưa, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, bên cạnh những truyện nói về thú viết chữ đại tự, rồi thả thơ, đánh thơ, uống rượu, làm đèn kéo quân, còn có một thiên truyện mang tên Chén trà trong sương sớm (sau Nguyễn Tuân giản lược đi mà chỉ gọi Chén trà sương). Nhân vật chính trong truyện, một cụ già, đã làm cái việc chuẩn bị cho những chén trà uống trong buổi sớm mai của mình với tất cả thành kính và những sự dụng công, mà người ngày nay chắc bảo là cầu kỳ: nào ấm đun phải ra sao, lửa phải cháy đượm thế nào, nước sôi già phải được thử lại thế nào. Rồi pha, rồi uống, nhất nhất đều tuân thủ những nguyên tắc khắt khe của trà đạo. Nguyễn Tuân kết luận: “Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy nhiều công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lý”.

Uống trà đã vậy, đến như những ngày sóc vọng tức là tuần rằm mùng một, lên chùa lễ Phật hoặc giỗ tết thờ cúng tổ tiên, ông cha ta xưa càng đòi hỏi một sự thuần khiết trong nghi lễ, bao gồm cả tấm lòng chân thành lẫn sự tự nguyện tôn trọng mọi quy tắc ứng xử đã trở thành khuôn mẫu.

Sau những năm dài chiến tranh, nay là lúc xã hội trở lại với những nếp sống bình thường. Chính vào lúc cánh cửa giao tiếp với nước ngoài được mở rộng thì cũng là lúc lời kêu gọi “Hãy quay trở về với mọi nền nếp văn hóa dân tộc” có được những nội dung cụ thể. Ta rủ nhau lên chùa. Ta góp tiền xây dựng lại nhà thờ. Ta đi nghe ca trù, xem rối nước v.v… Nhưng liệu đã có thể coi mọi việc ổn thỏa chưa, thì còn phải xem xem đã. Đang thấy xảy ra một quá trình đối nghịch đáng ngại, tức là người đến với văn hóa càng đông thì văn hóa lại càng trở nên xô bồ, thô lậu và chưa biết bao giờ tìm lại được vẻ thiêng liêng thanh khiết của nó. Đôi khi, người ta không khỏi phì cười để rồi sau đó thấm thía buồn trước việc mấy cô mấy cậu choai choai vào chùa mà ăn mặc hở hang và cả mấy câu cầu khấn tối thiểu cũng không thuộc. Lại càng buồn hơn khi phải tận mắt chứng kiến những công trình tu bổ di tích văn hóa theo lối học đòi, làm mất vẻ cổ kính vốn có, hoặc phải đọc những dòng mô tả lịch sử một nghệ thuật truyền thống nào đó được viết vội vàng theo kiểu nói lấy được, khen lấy được.

Dẫu sao, những vụng dại ấy còn có thể tạm tha thứ. Đến như những người mở hội lễ chỉ nhằm thu tiền lệ phí, góp tiền công đức xây chùa đúc tượng cốt để cầu mong thần thánh bỏ qua cho mọi hành động gian manh, đội bát hương cốt để phát tài phát lộc thăng quan tiến chức… tóm lại, làm tất cả những việc cao quý với mục đích vụ lợi, rồi lại tự lừa luôn cả mình và lớn tiếng khuyên nhủ mọi người trở về với văn hóa dân tộc, thì trước khi nói đến khía cạnh đạo đức, ở đây còn có vấn đề chính danh tức là người ta đã không làm đúng một việc như ý nghĩa việc đó phải có. Một vài chi tiết chung quanh câu chuyện thờ cúng tổ tiên còn tùy tiện nham nhở nói ở trên là nằm trong cái mạch chung đó. Ngược trở lại, sự thành tâm của người dân Hội An với những ngôi nhà thờ họ của gia đình chính là ví dụ về một tinh thần văn hóa thực thụ mà, rộng hơn chuyện thờ cúng, lẽ ra phải được quán xuyến trong nhiều hoạt động khác.

CON ĐƯỜNG NHỌC NHẰN

Lo gì mà lo, lo bò trắng răng – Lo ông trời đổ lo thằng trên cao. Người xưa từng đã chế giễu những kẻ hay lo bằng mấy câu đùa như vậy. Không rõ trường hợp anh M. bạn tôi sẽ nói sau đây có thuộc về cái dạng quá lo xa đáng buồn cười ấy, chỉ biết trong những dịp trò chuyện với nhau về việc trở lại với một vài phong tục cũ, hoặc bàn bổ đi thăm chùa nọ đền kia, trong khi chúng tôi hồ hởi tự tin (tin rằng chả khó gì cả!) anh thường trình ra một bộ mặt đăm chiêu. Khi thì anh nói to lên với chúng tôi, khi thì anh lầm rầm tự nói với mình, song bao giờ cũng một câu ấy: “Ờ, ý định hay lắm, nhưng mà xem xem, có làm được không đã”. Rồi anh đưa ra một loạt lý lẽ. Tôi thấy những lý lẽ này không hoàn toàn vô lý. Và cái chính là chúng tôi chưa đủ sức bác bỏ được nó, vậy xin chép lại ở đây, để các bạn cùng gỡ giúp, tạm xem như một trò đố vui trong dịp Tết.

– Hẳn ông còn nhớ một hai năm nay, báo chí nói nhiều đến tình trạng khu di tích Yên Tử bị đe dọa bởi một công trường khai thác than ngay bên cạnh. Đây chỉ là một trong rất nhiều ví dụ về cái mà chúng ta gọi là khả năng biến dạng của di sản trong kinh tế thị trường. Nói đến tàn phá ai cũng bực bội lên án, nhưng trong thực tế những sự tàn phá ấy cứ tiếp tục xảy ra mà xã hội không biết làm thế nào để ngăn chặn. Giữa chúng ta với quá khứ đang có cả một cái hố ngăn cách, đó là nếp sống tùy tiện và vụ lợi.

– Hồi tôi còn nhỏ, tức là ở Hà Nội trước 1954, và sau đó, những năm sáu mươi, trong danh mục các chùa nổi tiếng quanh Hà Nội, không bao giờ nghe nói đến chùa Hà. Người buôn bán thời ấy cũng không có chuyện đổ đi lễ đền Bà chúa Kho như các giám đốc công ty bây giờ.

… Lại nhớ có lần đi hội chùa Hương, tôi được giới thiệu vào một cái hang gọi là hang mới khai thác. Màu đất còn đỏ. Gạch đá thiếu hẳn vẻ rêu phong. Nhưng đến khi người quản lý đứng ra giới thiệu thì ông ta cứ hồn nhiên mà kể rằng quân của vua Quang Trung trên đường ra đánh giặc Thanh đã ghé lại nơi đây. Và để chứng minh, ông ta chỉ vào những viên đất nung trên đó có vạch sơ sài mấy chữ Hán viết rất vụng và thiếu nét (đúng hơn, phải gọi là vẽ chữ không phải viết). Thật tôi phải cố để khỏi nhịn cười! Nghĩ tới những chuyện trên và nhiều chuyện tương tự, cứ ấm ức, như vừa bị lừa. Tôi nghĩ mình không có gì sai, khi đòi hỏi tính chân thực tuyệt đối ở các di sản. Nếu chúng ta còn coi mảnh đất ấy, ngôi chùa ấy là thiêng liêng, phải giữ cho bằng được tính chất thuần khiết của nó. Mọi sự tô son trát phấn ở đây đều gây phản cảm.

– À quên, lại còn câu chuyện dân ca quan họ nữa chứ. Đầu 2000, có một chương trình truyền hình, trong đó, nhờ sự môi giới của những chuyên gia hàng đầu, người ta ghi được quang cảnh các cụ xưa gặp gỡ nhau và hát với nhau ngay trên làng quê của mình. Cũng những giai điệu quen thuộc, mà tinh thần thì khác, lời lẽ khác, và không khí làm nền cho sinh hoạt âm nhạc cũng khác. Ai đó đã nói đùa: Lâu nay ta toàn được nghe dân ca của đài, chứ đâu phải dân ca thứ thiệt! Nghe mà nẫu cả ruột!

– Nói thế, không phải là tôi sổ toẹt công lao của nhiều người trong công cuộc khôi phục và gìn giữ di sản. Tôi chỉ lưu ý một điều: lòng hăng hái của chúng ta phải biến thành hành động cụ thể, mà trước tiên là việc nghiên cứu cho thấu đáo. Lấy một ví dụ: xem phim Trung Quốc làm về đề tài lịch sử dù là phim truyền hình loại hàng chợ, tư tưởng không có gì sâu sắc, trang phục của các nhân vật cũng rất rành mạch, đời Hán ra đời Hán, đời Thanh ra đời Thanh. Đằng này ở ta, quần áo thời Hai Bà Trưng hay thời khởi nghĩa Bãi Sậy chống Pháp cũng là một. Nghe đâu có người còn bảo rằng cái áo mà các nhạc công trong các dàn nhạc dân tộc ở ta hay mặc (trông na ná như cái gilet, nhưng không bó vào người và không cài khuy) là cái áo thường dùng của các diễn viên xiếc Liên Xô (cũ) hay Đông Âu gì đó, có người thấy tiện mang ra dùng, lâu mãi thành quen. Nếu đúng như thế, thì thật không ra thể thống gì nữa!

– Có lần, xem một bộ phim du lịch, tôi được biết ở Nhật có phong tục rất lạ, là họ thích di chuyển các di sản vật chất (một ngôi chùa chẳng hạn) từ địa điểm này sang địa điểm khác, chỉ có điều, từng chi tiết của ngôi chùa được giữ nguyên. Ví dụ cột cao bao nhiêu và làm bằng thứ gỗ gì, gỗ bao nhiêu tuổi, nhất nhất cứ như cũ mà làm, người sau lấy việc được giống y như người trước làm niềm vui và xem như kỷ luật bắt buộc.

Còn ở ta, hình như có truyền thống ngược lại, là người đời Nguyễn có phải sửa lại ngôi đền có từ đời Lê, thì trong khi để lại nó nguyên ở chỗ cũ, lại tha hồ thay đổi vật liệu, thay đổi kích thước cùng các loại chi tiết lặt vặt, và không bao giờ coi đó là chuyện xúc phạm tới di sản. Đến thời hiện đại, người ta càng sẵn sàng mang xi-măng, cốt sắt vào đền chùa một cách thoải mái.

– Để cho công bằng chúng ta cũng phải chia sẻ một chút khó khăn với các nhà nghiên cứu: Tiếp cận với người xưa khó lắm. Tài liệu tam sao thất bản, lại mất mát lung tung. Nhưng trước tiên, là tài liệu quá ít. Một bộ quần áo của người bình thường thôi, nó cũng có lai lịch riêng, nó thay đổi qua từng thời kỳ và nhìn vào những cải biến ấy người ta biết được sự tiến triển trong quan niệm sống hoặc những sự giao lưu văn hóa giữa xứ này với xứ khác. Tiếc thay ở ta những chi tiết vặt vãnh này gần như không được khảo sát và ghi chép, thành ra bây giờ có muốn phục hồi chính xác cũng rất khó. Một ngôi đình được dựng lên, được người đương thời nhắc nhở, có khi được truyền tụng cả trong ca dao, thế nhưng mọi người chỉ biết đại khái làm theo hình chữ “đinh” hay chữ “công”, và chạm trổ kỳ khu lắm, và dành để thờ những vị thần hoặc những bậc anh hùng linh thiêng lắm, còn bên trong tổng diện tích là bao nhiêu, có bao nhiêu hàng cột, trên các hàng cột, các vì kèo có những phù điêu như thế nào, do ai chạm trổ… thì không có tài liệu nào ghi chép cả. Nói người xưa cố tình giấu kín không muốn cho hậu thế biết về mình một cách chi tiết, có lẽ… hơi oan, song quả thực quá khứ nhiều khi hiển hiện đấy, mà lại vẫn có cái vẻ ẩn khuất, lờ mờ, người các thời sau khó lòng đến với cái nguyên bản chắc chắn của nó. Sứ mạng rút cục đặt lên vai con người thế kỷ XX. Đáng lẽ, chúng ta phải biết tận dụng các phương tiện khoa học thời nay, đi vào đo đạc khảo tả các công trình còn lại một cách hết sức chi tiết để khi có điều kiện, phục hồi chúng hoàn toàn… thì, vì bận bịu quá, mệt mỏi quá, mà đôi khi đơn giản vì ít tiền quá, chúng ta không đủ sức làm.

Tóm lại, tôi muốn nói một điều: trở lại với quá khứ nhọc nhằn lắm, không phải cứ luôn mồm kêu gọi nhau, rủ rê nhau là làm ngay được.

– Nhân vật Chí Phèo của Nam Cao thường được dẫn ra để chỉ những anh chàng lì lợm ăn vạ hoặc trâng tráo bất cần đời, và nhiều người thường chỉ nhớ tới Chí Phèo những khi đùa bỡn. Nhưng trong câu chuyện nghiêm chỉnh của chúng ta hôm nay, tôi cứ thấy nhớ bác Chí ở một khía cạnh khác: ý tôi muốn các anh cùng lưu ý đến đoạn cuối cùng, khi Chí Phèo dõng dạc nói với Bá Kiến: “Tao muốn làm người lương thiện”, rồi khi Bá Kiến cười ha hả “Ô tưởng gì…. tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ” thì Chí Phèo lắc đầu nói như đanh đóng cột: “Không được! Ai cho tao lương thiện(…). Tao không thể là người lương thiện nữa”.

Khi bắt đầu tả Chí Phèo đến với Bá Kiến, nhà văn Nam Cao ghi rõ rằng lúc ấy Chí Phèo say rượu và hắn làm thế vì “những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi, chúng định làm”. Thế nhưng đọc đoạn này, tôi lại thấy Chí Phèo rất tỉnh, vì chỉ tỉnh táo lắm, người ta mới tính được rằng hành động của mình cần những điều gì bảo đảm và nó sẽ được người chung quanh tiếp nhận ra sao, liệu mình có thể làm được cái điều mình đã dự định hay không. Còn chúng ta, trong sự sôi nổi của các hành động hàng ngày – ở đây là cái ao ước thiết tha muốn được trở về quá khứ – hình như nhiều người chưa bao giờ có được sự tính toán cần thiết và sáng suốt ấy.

SỐNG SAO TRONG NHỮNG NGÀY VUI?

Ai đó từng khái quát: Các dân tộc đều khóc giống nhau và chỉ cười là khác nhau. Không biết một nhận xét như thế liệu có chính xác, chỉ biết giữa một đám đông, người trong cảnh buồn thảm thường được chung quanh chia sẻ, nếu không, ít ra mọi người cũng yên lặng để tỏ ý tôn trọng. Còn với người vui thì không hẳn thế. Người đang vui dễ gợi cả sự đồng cảm lẫn những phản cảm, dễ bị mang ra luận bàn xét nét, và đấy là một quy luật chung trong giao tiếp – ngay cả khi mọi người cùng vui, như trong dịp Tết.

Một nhà nghiên cứu lịch sử cho biết: Ngày xưa, vua có ban tặng cho các quan tiền bạc hoặc phẩm vật nào đó, thường không cho nhận ngay trước mặt đồng liêu, mà dặn hãy cứ về nhà; rồi lính sẽ mang đến sau. Vua làm thế là để giữ thể diện cho người nhận. Người ta dễ bộc lộ sự tầm thường, khi quá hí hửng trước món quà trao tay.

Rộng ra mà xét, mỗi khi vui, tức là chúng ta hài lòng vì gặp được điều hợp ý muốn; nói cho hết lẽ, trong khi vui, con người có dịp trình ra một điều quan trọng: lý tưởng của anh ta, những gì làm cho anh ta thấy cuộc sống có ý nghĩa, và trong một số trường hợp, điều mà anh ta có thể mang cả cuộc đời ra đánh đổi.

Có lẽ vì thế mà vào những ngày Tết, người lớn dễ cười bọn trẻ con: chỉ có mấy đồng mừng tuổi (lì xì) mà chúng cũng sung sướng như bắt được vàng!

Nhưng thử tách ra để nhìn lại chính mình – thật không ai dám cam đoan là ta đã thoát khỏi cái tâm lý trẻ con ấy!

Một người bạn tôi, nhận xét một anh bạn khác:

– Thằng ấy cả đời nghèo, bây giờ mới nảy nòi lên một tí, cứ cuống cả lên, chỉ sợ chung quanh không ai biết!

Tôi nghe mà giật mình: Chắc nhiều người cùng cảnh như anh bạn nọ, mới đỡ khổ được vài năm, những điều sung sướng không dám nói là đã quen, nên cái sự hiện ra lố lăng tầm thường truớc mặt mọi người, chắc không thể tránh khỏi.

Lại nhớ cách yêu ghét của người thời xưa: Bấy giờ những kẻ giàu xổi mà lại hợm của, thường bị khinh bỉ, như một thứ gì gớm ghiếc lắm, tệ hơn cả sự nghèo túng. Còn bây giờ hình như chúng ta sống xô bồ hơn và trong quan hệ thì xuê xoa dễ dãi với nhau hơn. Trong đời sống hàng ngày, ta mải đua đả với nhau, tranh khôn cùng nhau, hơn là suy xét bảo ban nhau, thành thử sự hợm hĩnh chỉ được coi là cái lỗi quá nhẹ, không mấy khi bị lên án.

Một điều dễ hiểu là trong các thời điểm thiêng liêng, như những ngày Tết, mỗi cá nhân đều có nhu cầu tự khẳng định. Nhưng khẳng định như thế nào bây giờ? Lệ đốt pháo đã bị cấm một cách chính đáng, lý do chỉ vì quá nhiều kẻ lấy việc nhà mình phát ra một tiếng nổ to hơn các nhà khác làm niềm kiêu hãnh. Nhưng tương tự như vậy, những thói xấu nho nhỏ khác, đâu đã được dẹp hết. Ngồi trong nhà, hát ông ổng, rồi mở thật to cái loa điện, bắt cả làng cả phố cùng nghe… Giữa đám tế lễ, buông lời pha trò cợt nhả, để đồng bọn cùng cười với nhau… Ăn uống thừa mứa, nói năng tục tằn… Với nhiều người chúng ta, tự do đồng nghĩa với buông thả, ta muốn gây chú ý với bất cứ giá nào và sẵn sàng để cho cái phần hoang dã trong mình nó tha hồ hoành hành, có biết đâu, đó chỉ là một cách tự tố cáo rằng đời sống tinh thần ở ta nghèo nàn, văn hóa chung sống thấp.

Bởi văn hóa là một cái gì quá rộng, nên cái sự thiếu thốn sự vắng mặt của nó, chúng ta còn cảm thấy trong nhiều trường hợp khác. Ta nhớ tới văn hóa khi cần chọn một cành đào, bày một mâm ngũ quả, lựa một bức tranh treo trên tường: làm sao để khỏi mang tiếng đắp điếm lộn xộn, để tất cả hòa hợp với nhau đây? (Văn hóa lúc này có nghĩa một trật tự, một tinh thần quán xuyến và một thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh). Ta lại càng nhớ tới văn hóa, khi tái tạo lại một tập tục xưa, hoặc tới thăm lại một ngôi chùa, dự một ngày hội: liệu có cái gì trong hồn người xưa, mà ta chưa đủ nội lực để thâm nhập? (Văn hóa ở đây không chỉ là những hiểu biết cặn kẽ về quá khứ, mà còn là khả năng cảm thấy tính liên tục của thời gian, cùng là nghe được sự có mặt của giống nòi trong huyết quản mỗi con người đang sống).

Nói là mới mẻ, nhưng rồi cứ theo vòng vần xoay của trời đất, mỗi năm Tết lại quay về một lần. Hình như tuổi tác càng tăng, thì niềm háo hức với Tết càng giảm. Nhưng dù không sống ngày Tết cho ta, mà chỉ đón Tết cho mọi người, vẫn cần đến một chút tươi mới trong cảm xúc. Làm sao để thoát khỏi nhàm chán, nếu thiếu đi sự trợ giúp của văn hóa?

Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Tuân là hai nhà văn trái ngược hẳn nhau trên phương diện cảm thụ đời sống, ấy vậy mà giữa hai người vẫn có một chỗ gặp nhau tự nhiên. Nguyễn Công Hoan trong nhiều truyện ngắn thường chế giễu một cách cay độc bọn trọc phú hợm hĩnh vô học, còn Nguyễn Tuân, trong Vang bóng một thời, lại phác hoạ một cách tài hoa nếp sống thanh nhã của người xưa, và cho thấy một đời sống tinh thần vững chãi là cần thiết cho con người đến như thế nào.

Nam Cao trong Mua nhà vừa sung sướng nghĩ rằng mình gặp may, lập tức xót xa vì cảnh thất cơ lỡ vận của người khác.

Thạch Lam trong một bài báo Tết không chỉ nói đến mứt, rượu… mà còn lưu ý riêng đến mấy bông hoa nát, những cành đào xấu xí, những bó thược dược tơi tả không ai mua… và chỉ thanh thản khi thấy trong phút cuối cùng trước giao thừa, những thứ hèn mọn ấy kịp đến với những căn buồng tiều tụy để mang lại một ít niềm vui, một ít hy vọng nhỏ bé.

Những nếp sống đẹp, chín, thuần thục còn được ghi lại một phần trong văn chương hôm qua.

Trên con đường tìm tới một cách sống văn hóa trong những ngày vui, có những điều mà người hôm nay phải có cách giải đáp riêng của mình, nhưng nếu bớt chút thời gian đọc lại người đi trước chúng ta vẫn nghe được nhiều lời dẫn dụ bổ ích.

MỘT DỊP TRỞ VỀ VỚI DĨ VÃNG

Đêm 30 Tết Tân Hợi (1971), về công tác ở một đơn vị bộ đội và đón giao thừa giữa rừng, tôi chỉ còn tìm thấy niềm an ủi ở một bếp lửa. Từ khoảng mười giờ đêm trở đi, không biết làm gì mà cũng không thể ngủ nổi, tôi và mấy anh lính Hà Nội nghĩ ra cách giết thời gian là ngồi đun nước. Nghĩa là đun đầy một cặp lồng cho sôi lên sùng sục, rồi đổ đi. Lại một cặp lồng khác. Cố nhiên chẳng để làm gì, nhưng bù lại, tôi thấy vui vui. Và có điều lạ là nhiều năm sau, sống những cái tết bình thường khác bên gia đình, vợ con, tôi vẫn nhớ Tết năm 1971 ấy như một thời khắc đẹp trong đời mình.

Có lẽ là trong sự đơn sơ của tình thế, tôi như được đối mặt với những gì thuộc về tinh túy của dĩ vãng: vẻ bao la huyền bí của thiên nhiên. Và một bếp lửa, nó là dấu hiệu đẹp nhất của sự có mặt của con người trên mặt đất. “Đưa người ta trở về sống trọn vẹn trong cái trong trắng tinh khôi của dĩ vãng” – phải chăng có thể xem đấy là một trong những định nghĩa đơn giản nhất về Tết mà ngày nay đã bị quên lãng?

Nông thôn và Tết

Do tính chất ước lệ của nó, văn chương cổ điển Việt Nam không có điều kiện mô tả trực tiếp những nét đẹp của sinh hoạt dân tộc. Phải đợi đến thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, ngòi bút các nhà văn mới hướng vào việc tả thực và trong văn thơ người ta bắt đầu thấy hiện lên những bức tranh của đời sống, trong đó có cảnh Tết. Nhưng, từ rất sớm, đã thấy bộc lộ một xu hướng, ấy là những cảnh Tết đầm ấm nhất, tươi đẹp nhất, thường khi là Tết ở nông thôn (như trong thơ Nguyễn Bính, thơ Đoàn Văn Cừ). Còn Tết thành thị lại mang sắc thái bẽ bàng, trớ trêu (trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hoặc trong tùy bút Một chuyến đi của Nguyễn Tuân). Tại sao lại có tình trạng đó? Tôi có suy nghĩ và thấy Tết là một cách sống lại dĩ vãng. Mà trong đời sống một dân tộc, nông thôn bao giờ cũng mang rõ dấu vết của dĩ vãng hơn cả. Nói cách khác, Tết tự trong bản chất của nó, là gắn với nông thôn. Nó xuất phát từ nông thôn và chỉ hiện ra với đầy đủ vẻ đẹp trong môi trường nông thôn. Thí dụ như câu chuyện chung quanh cái bánh chưng. Thời buổi đói kém qua đi, mấy ai bây giờ nhớ tới bánh chưng với vẻ thèm thuồng tối thiểu. Chính các cụ xưa cũng đã khái quát: “Dửng dừng dưng như bánh chưng ngày Tết”. Nghĩ lại thì hóa ra cái thú bánh chưng không phải ở chuyện ăn, mà là chuyện chuẩn bị. Đãi đỗ, vo gạo, rồi rửa lá. Nhất là gói thì càng vui. Còn cái thú của việc ngồi canh bánh chưng thì đã được Nguyễn Bính nhắc tới từ hơn sáu chục năm trước.

Trời đen như thể tối ba mươi

Diễm trốn nhà sang để gặp tôi

Hai chúng tôi ngồi trên đệm rạ

Lắng nghe nồi bánh rộn ràng sôi.

Nên đón Tết như thế nào?

Trong trường kỳ lịch sử, với tư cách một lễ hội đặc biệt, cố nhiên Tết còn được người xưa giải thích theo những cách khác nhau. Tết để tưởng nhớ công ơn tổ tiên. Tết để có dịp gia đình sum họp. Đến ngày nay, dịp đầu năm này tiếp tục khoác thêm nhiều ý nghĩa mới: tết, ấy là dịp tổng kết mừng công. Là thời gian nghỉ ngơi trước khi bước vào một chu kỳ công việc mới v.v…

Thế nhưng, căn cứ vào cách tổ chức Tết từ cổ các cụ truyền lại và lắng nghe tâm trí mình mỗi dịp Tết đến, thì phải nói ở đây nhu cầu trở về với quá khứ vẫn là cái cảm giác bao trùm. Và nét tâm lý ấy di truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia, đến mức chỉ mơ hồ cảm thấy những dấu hiệu của nó, lòng dạ chúng ta đã xốn xang.

Khốn nỗi, xã hội ngày mỗi trở nên hiện đại, có nghĩa là càng ngày, niềm khao khát trở lại ngày xưa càng khó thực hiện. Trước 1945, ở Hà Nội, nhiều gia đình có cái lệ là Tết đến đóng cửa, giao cho bọn thằng nhỏ trông nhà, để mọi người cùng kéo về quê ăn Tết. Ngày nay, những chuyến đi thú vị ấy trở nên quá diệu vợi, không mấy ai dám tính chuyện rắc rối ấy nữa. Và để bù vào cái khoảng trống vắng vừa mở ra, một số người xoay ra tổ chức Tết thật linh đình. Tết trở thành một thời điểm thuận tiện, tiến hành các thủ tục ngoại giao, biếu sếp cái này, thết đãi bạn cũ món kia; Tết đóng vai trò một sàn diễn lý tưởng để người ta khoe giàu, khoe của. Nói chung, vừa là tết trưng diện, vừa là tết hưởng thụ.

Nói những chuyện này để thấy hóa ra có được một cái Tết như ta vẫn thầm mong đợi, quả là chuyện khó, trong mỗi đời người họa chăng chỉ có một hai cái Tết mà mãi về sau ta còn thấy nhớ. Để những cái Tết ấy đến sớm và còn tiếp tục đến, ta hãy tự chuẩn bị bằng cách bảo nhỏ với nhau, một là từ bỏ hẳn ý tưởng coi Tết là một dịp đua đả bon chen, khoe khoang tị nạnh và hai là trong khi thực hiện những tập tục xưa với lòng thành kính, hãy cố gắng mang vào đấy những suy nghĩ riêng, tức không dừng lại ở những cách giải thích sẵn có mà tự lắng nghe để tìm ra ở Tết những ý vị mới.

Chắc chắn nhờ thế, dịp Tết sẽ bớt nhàm chán, và ra giêng người ta sẽ không phải nghĩ về nó với một sự than tiếc ngẩn ngơ rằng vừa trải qua một chuỗi ngày dông dài vô bổ.

THẾ NÀO LÀ MỘT CÀNH ĐÀO ĐẸP?

Mấy câu hỏi nhỏ

Các điệu hát văn, các bài quan họ… xưa nay vẫn thường được xem như những tinh hoa của nền âm nhạc truyền thống ở Việt Nam. Và vào những ngày Tết thế nào cũng chiếm trọn vài ba chương trình truyền hình. Theo dõi các chương trình này trong một số năm, tôi nhận thấy có một nơi thích được người ta dùng làm nền cho các buổi diễn dân ca ấy là khu văn Văn Miếu Hà Nội, ở đấy, ngay trước đền thờ Đức Khổng Tử, có một cái sân khá rộng, có thể trải chiếu rồi bày biện đủ thứ. Kể ra làm thế cũng nhất cử lưỡng tiện, vừa giới thiệu thêm được Văn Miếu, vừa tạo không khí cho nơi biểu diễn ca nhạc cổ – tôi hiểu ý của những người bố trí chương trình là vậy. Quá lên một chút, có thể coi đây là một sáng tạo trong dàn dựng.

Song cũng đã đôi lúc, trong tôi nảy ra một vài câu hỏi nhỏ: Liệu có thể coi sân Văn Miếu tương tự như bất cứ sân đình nào để rồi lấy làm nền cho các chương trình biểu diễn dân ca, bất chấp nội dung âm nhạc ở đó ra sao? Nếu đây là những bài dân ca ngả sang giọng tình tứ lơi lả, và người biểu diễn phải vận khăn xanh váy tím để tạo không khí, thì có hợp cách? Mang hai cái đẹp khác dòng khác mạch nhau (một bên tôn nghiêm kính cẩn, bên kia khoáng đạt buông thả) để cạnh nhau như vậy, liệu đã ổn về mặt mỹ cảm, nhất là lại làm cái đó trong những ngày tết truyền thống của dân tộc.

Một trường hợp trôi nổi

Nếu với tình trạng vừa nêu ở trên trong bụng còn đang phấp phỏng, chưa biết thế nào là phải, thì với câu chuyện sau đây, không còn nghi ngờ gì nữa, sự “phạm quy” theo tôi là rõ rệt: ý tôi muốn nói tới mấy cây đào mang bán khắp phố phường Hà Nội trong dịp Tết.

Những ai Tết đến vẫn đi mua đào hẳn nhận ra hai vẻ đẹp được coi là phổ biến đôi mươi năm nay.

Một là những cành đào tròn, nhiều nụ và hoa, lúc nở hết phải nói cứ trạt những hoa là hoa.

Hai là những cành và cây tự nhận là đào thế, cành không thẳng mà từ gốc lên uốn cong một hai vòng, người bán khéo tán bảo đó là thế rồng.

Thời gian gần đây, hai vẻ đẹp này dường như được số đông người mua hàng công nhận, nó là một nhân tố phải tính tới để người ta định giá và mặc cả với nhau.

Trong khi ấy, theo chỗ tôi nhớ mấy chục năm trước (tạm tính từ 1960 trở về trước) cách chọn đào của người Hà Nội có khác.

Loại cành đào nở đều tròn xoe, có người nói nôm na là hình cái nơm, hồi ấy đã bán khá nhiều nhưng chính do cái sự quá hoàn mỹ của nó, người kỹ tính không chuộng lắm, cho là chỉ thích hợp với hạng giàu xổi.

Còn đào thế lúc ấy được hiểu là những cành có dáng lạ, bất ngờ, gợi cảm tưởng vững chãi trong giá rét, và chắc chắn là một sự tự nhiên bột phát chứ không do một bàn tay khéo léo nào uốn mãi mà thành. Trong khi có vẻ phớt lờ vẻ cân xứng hòa hợp theo con mắt thường, thực tế là những cành đào thế ấy lại có vẻ cân xứng riêng, độc đáo. Và hoa cũng không cần nhiều, chỉ lưa thưa ít bông thôi, nhưng bông nào ra bông ấy, tươi, bền. Loại đào có thế đẹp như vậy khá hiếm, có khi đi cả chợ mới gặp một cành. Nhưng thà không mua thì thôi, chứ không ai chấp nhận cành đào uốn theo kiểu con giun là đào thế, và người trồng đào có nghề cũng không uốn đào theo kiểu ấy để bán.

Nhân khi cùng bàn bạc về đào bây giờ, một người bạn tôi vốn dân bạo mồm nói rằng có vẻ như người thời nay dễ dãi xô bồ trong việc chơi cây cảnh. Vẻ đẹp cổ điển, vẻ đẹp chân chính mất đi, thay vào đấy là những vẻ đẹp giả tạo cố ý uốn éo chiều nịnh con người.

Nếu cho rằng nói thế là quá cực đoan thì qua đây, ít ra cũng phải công nhận rằng, đối với nhiều phong tục xưa, chúng ta mới hiểu một cách đại khái. Nghĩa là chỉ mang máng biết là hình như ông cha làm vậy, rồi mỗi người trong mỗi gia đình tùy theo trí nhớ mà làm. Từ mấy bài khấn trong đêm giao thừa, những đôi câu đối bày bên bàn thờ gia tiên, cho tới chúc tụng mừng tuổi, treo một vài bức tranh có giá trị trên tường, chọn nơi biểu diễn ca nhạc… hầu như rất nhiều việc đang trong tình trạng tự phát, giống như chuyện mấy cành đào uốn theo hình con giun được gọi là đào thế. Tình trạng này rồi sẽ trôi nổi đến đâu thật khó đoán trước.

Sự cần thiết của chuẩn mực.

Là những thói quen chi phối cách cư xử của cả cộng đồng, các tập tục (bao gồm cả các nghi thức trang trọng) bao giờ cũng được xếp vào lĩnh vực văn hóa và mỗi khi có dịp thực hiện một tập tục nào đó, mỗi chúng ta thường tự cảm thấy mình đã làm được một việc tử tế là trở lại với cội nguồn của dân tộc.

Thật ra, mỗi tập tục chỉ có ý nghĩa văn hóa, khi nó làm toát ra cái xu thế riêng mà nền văn hóa theo đuổi. Nói như O. Spengler “Văn hóa là khuynh hướng tinh thần của một dân tộc đã hoàn tất một ý tưởng riêng nào đó về thế giới, và cái khuynh hướng tinh thần xét như một ý niệm nhất trí ấy đã xâm nhập vào tất cả hoạt động của họ, như nghệ thuật, tôn giáo, chính trị”.

Vậy nên, điều quan trọng là chúng ta phải cố để hiểu đúng ý nghĩa tập tục, và trong chừng mực có thể, tái hiện các tập tục ấy với cái tâm thế cũng như độ thuần thục mà người xưa yêu cầu. Ngược lại, một tấn bi hài kịch sẽ xảy ra khi người ta quá tin vào thiện chí và quyết tâm, rồi ồn ào đi vào văn hóa cổ theo cách tùy nghi của con người hiện đại.

Lâu nay, dư luận đã nói nhiều tới những bất cập trong việc tổ chức một số hội hè và người tham dự hội hè.

Song ngay cả với Tết Nguyên đán, cũng có trình trạng tương tự.

Để bắt kịp tâm lý thích trở về nguồn, mấy năm gần đây đã có nhiều sách vở nghiên cứu và kể chuyện Tết được in ra.

Chỉ đáng tiếc là những tài liệu kỹ lưỡng và chính xác, nhất là những tài liệu gọi đúng được cái tinh thần chính của Tết Việt Nam thì vẫn chưa thấy.

Lại có một điều ai cũng biết là bước sang thời hiện đại, không phải tất cả những nghi thức cũ đều thích hợp. Có những cái mê tín lạc hậu, cần lược bỏ. Có những cái rườm rà, ngày nay không thể thực hiện. Ở đây có thể quan sát thấy cả hai hướng phát triển quá đà: có một hồi, ở một số người nảy sinh những ý tưởng cải cách Tết, làm cho Tết trở nên thật giản tiện, và họ đã đi đến chỗ tước bỏ cả một số tập tục tốt đẹp vốn được coi là thiêng liêng. Nhưng rồi sang thời kinh tế thị trường giống như một sự “ăn trả bữa”, các tập tục cũ lại trở về một cách ồ ạt, kể cả những tập tục không hợp thời (kiêng kỵ, bói toán, đốt vàng mã). Rút cục, tình trạng tùy tiện đã có, lại thêm trầm trọng.

Cái đẹp khó nắm bắt

Nhưng hãy trở lại với mấy cành đào ngày Tết.

Trong một nền văn hóa dân tộc, ý niệm về vẻ đẹp bao giờ cũng là một bộ phận hữu cơ, lại là một cái gì tinh tế, không rõ mày mặt mà toát ra ở bất cứ chỗ nào có thể. Trong trường kỳ lịch sử, ông cha ta đã hình thành cho mình một mỹ cảm riêng. Cái mỹ cảm ấy có mặt qua những tác phẩm nghệ thuật, khi người ta xây một ngôi chùa, soạn một tập thơ, nhấn nhá một nốt nhạc. Nhưng cái mỹ cảm ấy cũng bộc lộ ngay trong đời sống bình thường từ cách ăn mặc, chọn chỗ ở chọn kiểu nhà, cho tới bày một mâm thức ăn và cắm một bình hoa, và nói chung là trong mọi công việc hàng ngày chúng ta vẫn làm. Do vậy, ngày nay trong khi trở lại với những tập tục của cha ông, một sự nhắc nhở nhau rằng phải cẩn trọng là không bao giờ thừa. Nếu như theo mỹ cảm của phương Đông, cái đẹp bao giờ cũng gần với tự nhiên, con người muốn làm toát ra cái hài hòa thầm kín của sự vật, và lo bộc lộ cho được cái vô hình đang khoe mình trong cái hữu hình v.v… thì cách làm của chúng ta trong những dịp Tết không thể thô thiển, nhất là không thể tô vẽ giả tạo và để mọi thứ phô bày quá lộ liễu như đang thấy.

GÌN GIỮ LẤY SỰ THIÊNG LIÊNG

Hội chứng ngán Tết

– Con chán Tết lắm! Thỉnh thoảng trong các gia đình, người ta vẫn nghe lũ trẻ mười lăm mười bảy, tính nết còn lông bông buột miệng kêu lên như vậy – cái sự buột miệng ở đây phải được coi là láo lếu, quá đà, đến mức chưa nghe hết lời người ta đã phải xua tay ra hiệu cho kẻ bất trị kia ngừng ngay, không được tiếp tục cái bài ca tùy tiện ấy nữa.

Nhưng nếu tôi không lầm, lúc chỉ còn người lớn với nhau cũng nhiều phen ngán ngẩm: Quả thực nghĩ đến Tết mà sợ!

Hội chứng ngán Tết chắc chắn không phải là một căn bệnh nặng và rồi người ta cũng vượt qua rất nhanh, tới mức lúc mơ hồ nghĩ lại, có cảm tưởng hình như đó là chuyện của ai kia, chứ không phải chuyện của mình. Song nghĩ cho cùng, đấy vẫn là một trạng thái tâm lý có thật, và cùng với thời gian, nó không bớt đi, mà có cơ trở lại trong tâm lý chúng ta thường xuyên hơn.

Những tập tục chưa biết bao giờ thay đổi

Vì đâu có hội chứng ngán Tết? Để chuẩn bị cho một ít ngày vui, thường thường người ta phải ném vào đấy không ít thì giờ. Tập tục quá nặng, những tập tục này vốn chỉ thích hợp với một xã hội cổ điển (mà phong cách chính là chậm rãi từ tốn) nay bước sang thời buổi của tốc độ, nhiều cái chưa thay đổi kịp. Kể ra đã có một vài món ăn như bánh chưng, như dưa hành, trước kia nhà nào cũng phải tự tay làm lấy, nay đã đi mua về dùng. Nhưng còn trăm thứ bà giằn những qui định linh tinh khác. Người ta cứ phải trông nhau mà nói năng cư xử, và lúc nào cũng canh cánh nỗi lo là không khéo thì sẽ phạm thượng. Hình như chính trong những ngày vui vẻ này, lại thấy ngự trị nhiều khuôn sáo hơn bao giờ hết? Lấy một ví dụ, cái việc phải tới nhà nhau, chúc tụng nhau những câu quen thuộc, không phải ai cũng đủ sức làm cho nó khỏi trở thành sáo rỗng.

Cuộc cạnh tranh ngấm ngầm!

Khôn ngoan đến cửa quan mới biết. Giàu có ba mươi Tết mới hay. Câu tục ngữ ấy giả định ngày Tết như một sàn diễn, ở đó bộc lộ thực chất giàu mạnh của mỗi gia đình, mỗi cá nhân. Với một số người, Tết là một trong những dịp hiếm hoi để bộc lộ chỗ hơn đời. “Nhà nào cũng có cây quất, song đẹp nhất phải là cây nhà mình” – người ta tự nhủ, và tương tự như thế, lao vào cuộc chạy đua chung quanh những gì tưởng là bình thường nhất: một bức tranh treo trên tường, một món ăn, một chai rượu. Vô hình trung, vui Tết đã trở thành một cuộc đua chen, đua mãi rồi có lúc lại cảm thấy vô nghĩa.

Sự trớ trêu thường trực

Thời nào thì mục hài hước ở các báo cũng có nhiều người đọc, dù là ở đây, người ta thường vẫn bắt gặp cảnh xào đi xáo lại. Như một bức tranh cùng một ý nhưng có nhiều họa sĩ thể hiện: mùa xuân, một cô gái đang ngồi mơ mộng trước cành đào, cạnh đó là một cậu bé đang hớt hải như từ đâu chạy vội về phá tan phút lãng mạn của bà chị. Chú thích tranh:

Xuân về lòng nở trăm hoa (lời chị)

Chị ơi, mẹ bảo chị ra cọ nồi (lời cậu em)

Bức tranh này có lúc còn được cải biên chút ít – thay cho người chị là một ông bố đang cao hứng ngâm thơ: Xuân sang dạ những bồi hồi. Và thay cho đứa em, là cậu con trai từ bếp chạy lên, hớt hải báo tin dữ (?) Bố ơi mèo xực mất nồi cá kho! Đã là sự trớ trêu của những ngày Tết, cái trớ trêu thường trực, nảy sinh từ một bên là ao ước, một bên là thực tế. Làm sao điều chỉnh bây giờ? Cả một nghệ thuật!

Có thể và nên nghĩ lại về… Tết

Thế có phải như vậy có nghĩa tôi đề nghị mọi người nên bỏ Tết, bỏ hết những dịp hào hứng đón xuân và chỉ sống những ngày đều đều tẻ nhạt? Không, tôi không ngớ ngẩn đến mức như vậy!

Trong truyện ngắn Không có vua, Nguyễn Huy Thiệp từng có hai câu tả phút giao thừa mà riêng tôi cứ nhớ mãi “Trời đất giao hòa. Lòng người cảm động”. Hóa ra ngòi bút vốn nổi tiếng là gai ngạnh, bất cần, con người thích nói về sự phá phách, sự hư hỏng, con mắt nhìn đâu cũng ra chuyện lưu manh tàn bạo, rồi con người ấy cũng phải để cho sự thiêng liêng có mặt trong tác phẩm của mình, và khi nói về sự thiêng liêng ấy, ngòi bút ông cũng trở nên đằm hẳn đi, chữ nghĩa cổ kính, câu cú đăng đối, như mọi người khác.

Sự có mặt của những ngày lễ là một nhu cầu của chính đời sống. Nhắc hội chứng ngán Tết và mấy chuyện trớ trêu ở đây chẳng qua là để cùng nhau nghĩ thêm về Tết. Vâng, đấy là việc có thể, và nên làm! Đừng nên cho rằng đã gọi là tập quán ngàn đời thì không được nghĩ đến nữa, cứ xưa sao nay vậy. Ngược lại, phải tìm ra cách đón Tết, vui Tết hợp lý nhất. Làm sao để có nghi thức mà không rơi vào lối mòn giả tạo, gây dựng được không khí đầm ấm của cộng đồng mà không làm mất sự riêng biệt của cá nhân, tiếp tục tập quán cổ truyền mà lại phù hợp với cuộc sống thời nay. Tóm lại là gìn giữ được sự thiêng liêng thực sự, cái thiêng liêng không có gì chung với thói mê tín vụ lợi.

VẪN CÒN CHỖ XỨNG ĐÁNG CHO NHỮNG…
ĐỘC ĐÁO CÁ NHÂN

Nguyễn Tuân có lần kể lại trong một thiên tùy bút in ra từ trước 1945: “Ngày trước thầy tôi không mấy khi ăn tết ở nhà (…). Trong những ngày đó, thầy tôi làm gì? Thầy tôi đi chơi chợ trời vùng Hòa Bình, ngâm vịnh trong những lúc nhàn tản ở vùng Chợ Cột, Đông Triều, vào trong Quảng Nam chơi chùa Non Nước, đề đá núi Ngũ Hành. Có lần thầy tôi nặng tình với bạn, đã coi nhẹ lòng quê, và trong một ngày mồng một tết kia, lang thang với cái tiểu sành đựng hài cốt ông thân sinh ra ông bạn”.

Nhà văn này đã nổi tiếng với những hành động, cử chỉ bị mọi người coi là “ngông nghênh”, “ngang ngược”, song một đoạn văn như thế, kể lại những ứng xử kỳ cục như thế, lại hai lần độc đáo, vì nó ghi nhận và ca tụng cái ý muốn phá cách ngay trong một dịp được coi là rất thiêng liêng, ở đây là những ngày tết Nguyên đán với những nghi thức vốn rất nghiêm ngặt. Nói đúng ra, đọc cho vui thôi, chứ trên đời này đã mấy ai dám làm theo những gợi ý của tác giả Tùy bút. Vậy mà tôi vẫn muốn tin rằng nhiều người thấy thích đoạn văn ấy, vì nó nói hộ chúng ta một nhu cầu có thật: nhu cầu tìm tới sự độc đáo trong mọi ứng xử và dù hoàn cảnh bó buộc bao nhiêu thì cái khao khát kia vẫn không bao giờ vơi cạn.

Qui tắc vàng

Đồng thời với việc khẳng định tính thiêng liêng của những ngày tết, các tài liệu nghiên cứu về phong tục thường không quên nói ngay tới những đặc điểm khác như niềm mong ước đoàn tụ gia đình và không khí đầm ấm, hòa hợp mà chỉ những ngày đầu năm mới có. Theo Nguyễn Văn Huyên, Tết “là một ngày lễ mà mọi người đều cử hành vô cùng trọng thể với một sự nhất trí đáng cảm động”. Từ điển lễ tục mới in ra gần đây cũng viết: “Để tiễn năm cũ, đón năm mới đến, mọi người lấy đơn vị từng gia đình và toàn xã hội để tổ chức”. Trên nguyên tắc, có thể bảo “đặc trưng văn hóa của tết Nguyên đán là nếp sống cộng đồng”. Thật ra, không cần đọc bất cứ tài liệu khoa học nào, mọi người Việt Nam cũng đã thầm biết cái “qui tắc vàng” ấy của lễ đón năm mới. Nó đi vào tâm thức ta, qua dòng sữa mẹ. Lúc nhỏ, ở với gia đình, chỉ cần nhìn qua nét mặt, cử chỉ của người thân là mỗi chúng ta hiểu ngay cái cảm giác thiêng liêng mà chỉ tết mới có. Và ta cũng biết ngay là vào những ngày ấy, phải sống trong sự đồng điệu với mọi người, phải tự hạn chế mọi ý thích cá nhân ra sao.

Thế nhưng, như tất cả các tài liệu nghiên cứu xã hội học đã nhấn mạnh, những chuẩn mực xã hội chỉ thực sự tồn tại thông qua việc “chiếm lĩnh” và “đồng hóa” của mỗi cá nhân. Mà nhu cầu khẳng định cá nhân là một nhu cầu thường trực và ngày càng rõ rệt hơn trong xã hội hiện đại. Trong khi chấp nhận những nghi thức của ngày tết, ta tưởng như cái cá nhân trong ta đã hoàn toàn bị dồn ép và đẩy lùi, song không hẳn như vậy. Bình tĩnh mà xét, người ta vẫn bắt gặp trong mình và những người quen mình rất nhiều nỗi niềm riêng tư, và nếu lưu ý sẽ thấy từng thế hệ nọ sang thế hệ kia, niềm thao thức ngấm ngầm ấy ngày một mãnh liệt.

Hai con đường tìm tới sự độc đáo

Có thể quan sát thấy nhu cầu khẳng định cá nhân trong những ngày tết vẫn được bộc lộ theo hai hướng chính:

Một là, cũng làm mọi việc như mọi người, nhưng làm theo cái cách riêng của mình, để vào đó dấu ấn của cá tính.

Hai là, trong phạm vi có thể thử làm những “cú đột phá”, ngược lại các nghi thức vốn được cộng đồng xem trọng.

Những người ở Hà Nội lâu năm đều biết thói quen của dân cựu trào ở thủ đô là rất kỹ càng trong việc chọn cành đào ngày tết. Người nhiều tiền và ít thì giờ chỉ cần chọn cành nào thật tròn, thật đẹp là đủ. Một số người khác không thế. Trong khi mọi người chơi đào tròn, họ chơi đào thế. Đào thắm nhìn mãi cũng chán, âu là ta đổi sang đào phai, và nếu như ngay giữa chợ mà chọn được một cành đào dại ngẩn ngơ thì người ta càng ngấm ngầm tự hào một cách chính đáng. Từ chuyện chọn đào đến chuyện gói bánh chưng, mua ít gói mứt, rồi sắp đặt bàn thờ, rồi ăn mặc, mừng tuổi, chào hỏi, đón khách…, bất cứ việc gì làm được khác mọi người một chút, người ta vẫn thích. Có thể bảo như thế là cầu kỳ, lập dị chăng? Không sao, ở đời ai chẳng thích độc đáo, chẳng qua có người nói ra lộ liễu, người lặng lẽ làm theo ý riêng mà thôi. Trên con đường khẳng định cá nhân, rồi có những lúc vô tình hay cố ý, người ta có thể trút bỏ hẳn các nghi thức như trường hợp mà Nguyễn Tuân đã tả ở trên, kể cũng không phải chuyện lạ.

Trẻ già đồng thuận

Suy cho cùng thì câu chuyện đi tìm sự độc đáo cá nhân trong những ngày tết còn liên quan đến một chuyện lớn lao vẫn đang chi phối cuộc sống mọi người. Ấy là nên quan niệm các nghi thức cổ truyền ra sao, chúng là nhất thành bất biến hay có thể thay đổi? Liệu chúng ta sẽ phải mãi mãi tuân thủ những qui tắc do ông cha truyền lại, hay có thể đón tết với những nghi thức ít nhiều khác đi mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc và tìm được cảm giác thiêng liêng như cũ? Một câu hỏi như thế có quyền đặt ra và để ngỏ, mời mọi người cùng suy nghĩ tiếp.

Chính ở chỗ này, thấy nổi lên vai trò của những người trẻ tuổi. Những “bứt phá” nho nhỏ của họ đã và đang lẻ tẻ bắt đầu trong các gia đình. Và đấy là điều cũng đã được các nhà văn ghi nhận.

Trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu có một thiên truyện mang tên Giao thừa. Nhân vật chính trong truyện là một ông già sống theo nguyên tắc cứng rắn, tối ba mươi bao giờ cũng bắt con cái ở nhà quây quần bên bàn thờ gia tiên, không đứa nào được đi chơi đâu hết. Thế nhưng đến một năm nọ, lũ con không chịu được nữa, xong việc chuẩn bị tết là lấy xe ra đường, tìm cách đón nhận giờ phút thiêng liêng theo ý riêng của mình. Ban đầu ông già cũng làm mặt nghiêm (và lấy cả xe điếu dọa), nhưng sau khi giảng giải đủ điều con cái vẫn không nghe, ông chỉ có cách lặng lẽ cho qua, bởi trong thâm tâm ông thừa biết con cái không thể hư được, chẳng qua chúng muốn sống khác đi chút ít trong những ngày tết, và rồi ông cũng phải nhận đó là một nhu cầu hợp lý.

Các nghi thức, dẫu sao, cũng chỉ có tính cách tương đối. Được sự thúc đẩy của cái khao khát chính đáng mà ở trên chúng ta vừa nói – khao khát khẳng định bản sắc độc đáo của mỗi cá nhân – rồi các nghi thức mới sẽ xuất hiện. Và sẽ là một điều vô cùng tốt đẹp nếu trong việc này, có sự đồng thuận của cả lớp trẻ lẫn lớp già. Bấy giờ, xã hội sẽ hình thành nên những tập tục mới.

THAY LỜI KẾT

TA TỰ NHẬN DIỆN LẠI TA

Ở những quán hàng giản dị của phố cổ Hội An, thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp những đôi bạn một ta một Tây trò chuyện với nhau khá tương đắc. Hỏi ra mới biết người Việt kia là chủ nhà hàng, người Tây kia chỉ là khách vãng lai, song ở đây khá nhiều ông chủ thông thạo tiếng nước ngoài, và nhất là đủ vốn văn hóa để trò chuyện với khách. Khách thích lui tới cửa hàng, phần vì món ăn, phần vì chính con người chủ nhân, lúc này đã trở thành một đối tượng đáng để người ta tìm hiểu, cũng như một hướng dẫn viên du lịch thành thạo.

Lại nhớ tới tình trạng phòng thừa của nhiều khách sạn hiện nay – dấu hiệu của tình trạng “mất mùa du lịch” mà không ai che giấu nổi, dù rằng không thiếu khách sạn vào loại mấy sao có đủ mọi thứ tiện nghi hiện đại.

Có phải tại nghèo không?

Từ chuyện du lịch, lại nhìn sang mọi chuyện khác của thời mở cửa. Sau hai cuộc chiến tranh khốc liệt, từ hơn hai chục năm nay, dân tộc ta mới có thì giờ để tâm vào những việc bình thường mà dân tộc nào cũng phải làm, từ lo cái ăn cái ở, lo cho con cái học hành, cho tới lên chùa cúng Phật, dọn dẹp đình miếu ghi nhớ công ơn tổ tiên, rồi là tiếp đãi bạn bè và thăm lại các danh lam thắng cảnh… Những tưởng các việc bình thường như vậy nào có gì khó, và ai mà chẳng làm được. Nhưng rồi bao chuyện hằng ngày tai nghe mắt thấy khiến người có suy nghĩ không khỏi phiền muộn: nhiều thắng cảnh không biết quản lý, trở nên cũ nát, hư hỏng; nhiều hội hè người đến chen chân, trở thành địa bàn lý tưởng của các hoạt động mê tín, và nói chung là trôi nổi trong sự trục lợi của dân địa phương. Làm ra hạt thóc thì được, nhưng làm ra gạo ngon, gạo sạch đủ sức cạnh tranh với gạo nước ngoài thì chịu. Trong khi hàng hóa ứ đọng vì không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thì dân trong nước chỉ chuộng hàng ngoại. Bằng cấp làm giả, và sinh viên ra trường không có việc làm…

Vậy thì nguyên do ở đâu, việc gì là cần kíp nhất bây giờ?

Nhiều người quanh đi quẩn lại chỉ đổ cho sự nghèo. Giá mà ta có tiền để làm việc này, giá mà ta được nước ngoài tài trợ để tính việc kia…

Tất cả những lời bắt mạch gọi bệnh kiểu đó có lẽ không sai, nhưng nghĩ kỹ ra mới đúng một phần.

Qua việc đối chiếu giữa không khí đầm ấm ở các cửa hàng ăn Hội An và tình trạng trống vắng của nhiều khách sạn loại “xịn”; và trên qui mô tổng quát, qua việc phân tích thành công cũng như thất bại của nhiều dự án khác nhau, có thể nhận ra một điều là đồng tiền không phải tất cả. Cái cần xem lại lúc này là chính con người chúng ta, cách sống, cách nghĩ của mỗi chúng ta. Có những nề nếp làm ăn, cách quan hệ với nhau, cách quan hệ với khách… đã hình thành từ lâu, nhiều khi là do cha ông để lại, trở thành một thứ bản năng thứ hai trong mỗi người nên ta thấy quen và tưởng không bao giờ thay đổi, nay đã đến lúc cần được xem xét lại, theo những tiêu chuẩn của đời sống hiện đại, để cái gì hay thì tìm cách giữ gìn, cái gì dở thì bảo nhau sửa đổi, có thế mới mong gỡ ra nhiều việc rắc rối trước mắt.

Chung quanh chuyện nghiên cứu văn hóa dân tộc

Nhân đây, xin được nói tới một công việc mà thời gian qua trở nên sôi động, và có người đã nói đùa là trở thành một thứ thời thượng: đó là nghiên cứu văn hóa dân tộc.

Ở nước nào cũng vậy, việc này sớm được coi là một ngành chủ đạo trong các hoạt động khoa học xã hội, bởi suy cho cùng nghiên cứu một dân tộc là gì nếu không phải là nghiên cứu nền văn hóa của chính dân tộc đó. Và một việc như thế mãi mãi tạo nên niềm say mê cho chính những người trong cuộc.

Song ở ta thì tình hình không hẳn như vậy.

Một mặt đi đâu cũng thấy nói tới nghiên cứu văn hóa: nhiều trường đại học và cao đẳng bắt đầu đưa văn hóa Việt Nam vào giờ chính thức; các giáo trình văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam được biên soạn; các tỉnh cho làm dư địa chí, các cuộc hội thảo được mở liên tiếp…

Mặt khác, cả trong những tuyên bố rành rọt về mục đích yêu cầu, lẫn trong công việc cụ thể, có thể thấy ở nhiều người nghiên cứu văn hóa hiện nay một cách định hướng đơn giản: “nghiên cứu văn hóa Việt Nam để cho thế giới thấy văn hóa ta không kém gì văn hóa người”, “nghiên cứu văn hóa để giúp cho mỗi người chúng ta thêm tự hào về truyền thống, và để chống sự xâm nhập vô lối của văn hóa độc hại”… (Một trong những công việc mà nhiều chuyên gia văn hóa đang được huy động là giúp các nhà lãnh đạo quốc gia hình thành chiến lược văn hóa).

Lấy những yêu cầu về phát triển trước mắt ra để nhấn mạnh tới tính cấp bách của việc nghiên cứu văn hóa – kiểu định hướng này cốt tìm tới những kết quả thiết thực, có ích ngay hôm nay. Không ai có thể phủ nhận giá trị cũng như mức độ cần kíp của cái công việc loại đó, nhưng tôi tưởng, sẽ là hợp lý hơn nếu xem toàn bộ hoạt động nghiên cứu văn hóa như là một cách thức hiệu nghiệm để dân tộc tự nhận thức chính mình, tự phát hiện lại mình với mọi cái hay, cái dở vốn có và đang bộc lộ trong mọi lĩnh vực đời sống. Một sự định hướng như thế sẽ mang lại cho công việc vốn rất khó khăn này một căn bản rộng rãi hơn và một mục đích lâu dài hơn. Sẽ tránh được lối nghiên cứu nông nổi, đôi khi mang sắc thái vụ lợi, còn khá phổ biến. Sẽ tạo nền tảng chắc chắn cho việc hoạch định chiến lược. Sẽ có thể góp phần thức tỉnh mỗi người để giúp họ sống ngày một cao quí, đúng với tầm vóc mà thế kỷ này mang lại cho họ. Sẽ tạo nên một sự sòng phẳng, do đó, là khả năng thuyết phục với những bạn bè đang muốn hiểu và yêu mến nền văn hóa Việt Nam.

Vượt qua phạm vi văn học, có những bài thơ đánh dấu nếp suy nghĩ một thời, chẳng hạn như mấy câu sau đây của Chế Lan Viên:

“Ta là ai?” như ngọn gió siêu hình

Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt

“Ta vì ai?” khẽ xoay chiều ngọn bấc

Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh

Thực ra thì đó là cách nghĩ của những năm chiến tranh: khi mà xã hội có bao nhiêu công việc cấp thiết phải lo, nó liên quan đến cả sự tồn vong của dân tộc, ta đành gác lại những việc cơ bản và bảo rằng chúng là hư vô, là siêu hình. Nay đã đến lúc không thể tiếp tục lảng tránh. Hơn bao giờ hết, việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản cần được đặt ra. Cần biết chính mình là gì, trước khi tính xem mình cần làm gì. Việc tìm tòi gian khổ để có được câu trả lời đích thực cho câu hỏi “ta là ai?” sẽ giúp cho xã hội tự nâng mình lên, vượt qua những khốn khó mà éo le thay, chính là tự ta gây ra cho ta và làm chậm bước tiến của ta.

KHÔNG THỂ LÀ MỘT TÌNH YÊU DỄ DÃI

Cuối năm 1997 trên báo Tuổi trẻ có cuộc bàn luận khá lý thú chung quanh câu chuyện “Thanh niên bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc”. Cuộc trao đổi trong mấy tháng cho thấy đây là một vấn đề bức xúc, đáng được mang ra để mọi người trình bày cách hiểu riêng của mình. Theo dõi phát biểu của các bạn trẻ, tôi đặc biệt chú ý những ý kiến tuy có vẻ “ngược dòng”, nhưng rất thành thực, đại loại như “Tôi có nghe nói văn hóa dân tộc hình như là chèo, hát tuồng, áo dài”, từ đó cho “văn hóa dân tộc chỉ là vật gợi nhớ”, ta “đừng mất thì giờ về những việc rườm rà” ấy, và nói thẳng ra thì “cái lo mất gốc sao bằng cái lo lạc hậu”. Những ý kiến tương tự như vậy là đáng quan tâm, không phải là tính đúng đắn của chúng – thật ra thì trong phần lớn trường hợp chúng đã sai đứt đuôi đi rồi! – mà vì chúng tố cáo một sự thực: việc giáo dục về văn hóa dân tộc ở ta còn quá kém. Và hơn thế nữa, phải nói nhận thức về văn hóa dân tộc của cả xã hội còn chưa tương xứng với gia tài chúng ta đang có.

Thậy vậy, sẽ là không công bằng, nếu nói rằng chỉ có một số bạn trẻ nào đó chưa hiểu, chưa yêu, chưa cảm thấy sự thiết yếu của văn hóa dân tộc. Nếu điều tra kỹ, tôi ngờ không ít người thuộc các thế hệ trước vẫn còn rơi rớt tâm lý đó. Đại khái nhiều người chỉ hiểu qua loa và nếu có yêu, thì đó là một tình yêu dễ dãi, nghe bảo vậy, thì cũng nói theo như vậy, chưa bao giờ để thời giờ sức lực tìm hiểu cho kỹ. Xét trên phạm vi toàn xã hội, có thể nói nhiều bộ phận di sản văn hóa chưa được nghiên cứu và đánh giá đầy đủ, lại càng chưa tìm được phương án khai thác cho hợp lý, bảo quản cho khoa học. Rồi đến một lúc nào đó, từ toàn bộ những di sản hữu hình (như đền chùa, lăng tẩm, sách vở…), cũng như vô hình (bao gồm thói quen sinh hoạt, buôn bán, những mối quan hệ phức tạp giữa người và người v.v…) ấy, tóm lại là từ từng bộ phận văn hóa đang có, chúng ta phải tìm cách rút đúc cho được tinh thần độc đáo thực sự của văn hóa Việt Nam, để cái gì tốt đẹp thì bảo nhau noi theo, cái gì lỗi thời thì dần dần loại bỏ. Nhưng tất cả những việc đó đang còn nằm ngoài tầm tay của giới chuyên môn, mà cũng chưa được toàn xã hội quan tâm một cách thích đáng. Trong khi đó, thì hàng ngày hàng giờ, công cuộc xây dựng kinh tế và tiếp xúc với người nước ngoài đòi hỏi chúng ta phải đối mặt với gia tài ông cha để lại, phải nói phải bàn cho chính mình, cho bạn bè, cho lớp trẻ mới lớn cùng nghe về những điều ta đang còn biết láng máng. Đang xảy ra một sự phân cực đáng tiếc, nó là lý do khiến cho một số bạn trẻ không khỏi ngại ngùng và xa lánh. Đó là, một mặt, chúng ta (chúng ta đây là lớp người lớn tuổi nói chung, mà bộ phận mũi nhọn là các nhà nghiên cứu cùng đông đảo những người làm công tác tuyên truyền, giáo dục) không ngớt đề cao văn hóa dân tộc, mặt khác lại chưa hiểu kỹ về nó, nói về nó chưa đầy đủ chính xác, chưa có sức thuyết phục, và trong khi truyền đạt cho thế hệ trẻ, thường có xu hướng nói lấy được, áp đặt hơn là gợi mở để họ tự nguyện noi theo. Ấy là không kể hàng ngày trong xã hội xảy ra rất nhiều việc được làm với mục đích tốt đẹp, người đứng ra làm yên chí làm thế để giữ lấy truyền thống, nhưng trong thực tế lại gây ra phản cảm, chẳng hạn tổ chức lễ hội một cách hình thức, in đậm màu sắc mê tín, hoặc sẵn sàng khôi phục cái hủ tục đã lỗi thời. Được chứng kiến những hoạt động nhân danh bảo vệ văn hóa dân tộc để kiếm lợi, hoặc phải nghe những lời sáo rỗng không có cơ sở khoa học, lẽ tự nhiên là trong tâm thức một số thanh niên nảy sinh ra sự hoài nghi, nếu không thì cũng bàng quan, xa lánh, và chúng ta phải cảm ơn họ là trong đợt trao đổi vừa qua trên diễn đàn họ đã thành thực bộc lộ, để toàn xã hội cùng biết mà lo liệu việc chữa chạy.

Trên đại thể, có một cách nghĩ mà lâu nay không ít thì nhiều, khá đông chúng ta dễ dãi chia sẻ – nghĩ rằng văn hóa dân tộc là “chuyện trong nhà”, ai mà chả hiểu, ai mà chả yêu, và nhất định là ta sẽ biết cách duy trì gìn giữ nó thật tốt rồi, còn như với đám thanh niên mới lớn, chỉ nói vài câu là “bọn chúng” nghe ra ngay, có gì mà phải quan trọng hóa vấn đề?! Thực tế mọi chuyện không suôn sẻ như vậy. Chính nhiều ý nghĩ tự phát được nói lên thông qua diễn đàn Thanh niên bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc thời gian vừa qua buộc chúng ta phải suy xét lại cách nghĩ giản đơn vốn có. Hóa ra làm cho đúng đã khó, mà nghĩ cho đúng lại còn khó hơn; vừa làm vừa nghĩ luôn luôn bàn bạc để rút kinh nghiệm, may ra chúng ta mới tìm ra được cách ứng xử hợp lý.

Thế còn về phần các bạn trẻ, có phải các bạn chỉ có cách thụ động chờ lớp người lớn tuổi làm trước, rồi mình liệu cách làm theo. Cố nhiên là bây giờ, không ai được quyền nghĩ thế nữa. Thực tế yêu cầu lớp trẻ phải có mặt ngay trong công cuộc tìm hiểu và đánh giá di sản văn hóa dân tộc, từ đó đóng góp vào việc cả xã hội cùng lo bảo vệ và phát triển phần gia tài lớn lao mà ông cha để lại. Theo tôi biết, nhiều bạn trẻ có tài hiện nay thường hướng về khoa học tự nhiên, dồn hết tâm lực vào đấy mà không để ý tới khoa học nhân văn, khoa học xã hội, và xem việc tìm hiểu văn hóa cổ truyền là việc của ai đó chứ không phải việc của chúng mình, thôi cứ để kệ họ làm, rồi họ có nói gì thì mình cũng gật gù cho xong chuyện. Dĩ nhiên, trong hoàn cảnh một nước còn nghèo như nước ta, thì cách nghĩ trên có lý do riêng của nó. Song hãy thử đặt câu hỏi: chúng ta xuất phát từ đâu để hội nhập với thế giới nếu không phải là xuất phát từ thực tế Việt Nam hôm nay? Vậy dù có đi đâu làm gì thì dòng máu Việt Nam vẫn mãi mãi chảy trong huyết quản chúng ta, và những bộ gien bền vững của nền văn hóa dân tộc còn tiếp tục chi phối mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta. Sẽ là vô lý nếu chúng ta tưởng ở đây có thể đánh bài tảng lờ, hoặc kính nhi viễn chi. Ngược lại, nếu đồng thời với việc trau dồi trình độ chuyên môn trong khoa học kỹ thuật, các bạn mang sự nhạy cảm và những kiến thức mà thời đại cung cấp vận dụng vào việc tìm hiểu gia tài tinh thần của ông cha, thì thứ nhất, đây là cách rất tốt để mỗi người bồi dưỡng nhân cách của chính mình, và thứ hai biết đâu các bạn chả có những đóng góp mới, tức mang lại cho tình yêu đối với văn hóa dân tộc sẵn có trong mỗi chúng ta một cơ sở khoa học vững chắc.

MỤC LỤC

Trang

Lời dẫn 1

Muôn mặt đời thường 2

  • Tại sao có nạn chùa giả?                                                                        3
  • Mấy cây si và đôi voi đá                                                                        6
  • Vừa là tình cảm, vừa là cầu lợi                                                               8
  • Chính những người đặt hàng có lỗi trước                                             10
  • Thừa thày thiếu thợ                                                                              13
  • Mạnh ai nấy sống                                                                                 16
  • … Và kiếm sống với bất cứ giá nào!                                                    19
  • Rồi sẽ cười trừ với nhau một lượt                                                         21
  • Khi hoa thành rác                                                                                 23
  • Lòng tin và khả năng tự đề kháng                                                        25
  • Văn minh túi ny-lông                                                                           28
  • Nói nhiều, như một căn bệnh…                                                            31
  • Thêm chất trí tuệ cho tiếng cười                                                           33
  • Nên hiểu thế nào về tiếng cười của thượng đế?                                     36

Nếp sống nếp nghĩ 39

  • Từ kiến thức đến nhân cách                                                                  40
  • Bàn thêm về mối quan hệ giữa kiến thức và nhân cách                        43
  • Gánh vải quả đi bộ 4.000 km mà vải không hỏng!                              45
  • Tâm sự người đi hội thảo                                                                     47
  • Có phải là thất đức?                                                                             49
  • Bảy bước tới tha hóa                                                                            52
  • Nghĩ lại về chính… sự nghĩ                                                                  55
  • Đáng sợ nhất là những cách nghĩ tưởng như rất có lý                           58
  • Nghèo khó nghĩa là muốn làm gì thì làm?                                            61
  • Tiếp tục câu chuyện về cách nghĩ cũ, cách nghĩ mới                             64
  • Văn hóa quà vặt                                                                                   68
  • Lộn xộn tiếng Việt thời giao lưu văn hóa                                             70
  • Nỗi sợ cần thiết                                                                                    75
  • Nhận diện người đọc hôm nay                                                              78

Về di sản và lễ hội 82

  • Sự lên ngôi của thói vụ lợi                                                                    83
  • Hiện tượng “lại gạo”                                                                             86
  • Cái đứng đằng sau luật pháp                                                                89
  • Sự hỗn độn kéo dài                                                                              92
  • Tập tục, tốt và xấu                                                                               95
  • Di sản giữa đời thường                                                                         97
  • Giữ gìn và tôn tạo như thế nào?                                                         100
  • Yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau!                                            103
  • Làm sao để vượt lên trên tình trạng tự phát và manh mún?               106
  • Quá khứ vẫn đang có mặt                                                                  110
  • Sự bao dung không cố ý                                                                     113

Từ nông thôn tới đô thị 116

  • Đối diện với quê hương                                                                      117
  • Hiện đại… nửa chừng                                                                         121
  • Làm như thế nào cho có hiệu quả?                                                     125
  • Còn rất nặng căn                                                                                129
  • Chuyện ăn chuyện uống                                                                     132
  • … Và chuyện nơi ở                                                                            136
  • Thích ứng một cách khó khăn                                                            140
  • Gỡ ra cho thoát còn gì là thân                                                            145
  • Nếp sống làng quê giữa lòng phố xá                                                  148
  • Nhìn từ hai phía                                                                                 152
  • Đẹp đấy mà cũng xấu đấy                                                                  155
  • Những sự dang dở                                                                              157
  • Nguy cơ của cuộc sống tạm bợ                                                           160
  • Trong vòng vây của hàng rong                                                           163

Nỗi niềm người muôn năm cũ 165

  • Vắng vẻ ga xép                                                                                   166
  • Muốn đến với người phải tự hiểu mình                                              170
  • Sự chuyển pha còn dang dở                                                               173
  • Người muôn năm cũ hay là những ông đồ giữa chúng ta                    178
  • Thành kính và thuần thục                                                                  182
  • Con đường nhọc nhằn                                                                        186
  • Sống sao trong những ngày vui?                                                        189
  • Một dịp trở về với dĩ vãng                                                                 192
  • Thế nào là một cành đào đẹp?                                                           195
  • Gìn giữ lấy sự thiêng liêng                                                                  199
  • Vẫn còn chỗ xứng đáng cho những… độc đáo cá nhân                      202

Thay lời kết 205

  • Ta tự nhận diện lại ta                                                                         206
  • Không thể là một tình yêu dễ dãi                                                       209

* In trong tập Nguyễn Khải Truyện ngắn và tạp văn, TP. Hồ Chí Minh, NXB Trẻ, 1997, Tr 305-312.

 

** Xem Tuyển tập Nguyễn Khải, T.III, NXB Văn học, 1996, tr 262-280

Bình luận

  • Viet Hung  On Tháng Chín 28, 2010 at 4:39 chiều

    Cam on bac Vuong Tri Nhan! Toi hoc duoc nhieu tu nhung bai viet cua bac.

  • diệu thi  On Tháng Năm 5, 2010 at 9:27 sáng

    Bác Vương kính mến, Bác còn quyển Nhân Nào Quả Nấy thì chia lại cháu một quyển nhé. Cháu tìm các tiệm sách mà không thấy, Bác ạ! Cảm ơn Bác rất nhiều, thưa Bác.

Trackbacks

Bình luận về bài viết này