Chuyện cũ văn chương

 

Vương Trí Nhàn

 

 

Chuyện

văn

chương

 

 

1. Khái Hưng và lược sử

văn chương Việt Nam

 

Hướng vận động chủ yếu của văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là Âu hoá, tức là tự nhào nặn theo mẫu hình văn hoá phương Tây. Nhưng một trong những yêu cầu mà mọi nền văn hoá cấu tạo theo kiểu phương Tây bắt buộc phải tuân thủ, là nền văn hoá đó phải trở về gắn bó với dân tộc, phải góp phần vào việc tự khám phá truyền thống của chính mình. Có hiểu nghịch lý này người ta mới không thấy lạ khi chứng kiến cả loạt “sự trở về cội nguồn” của nhiều trí thức văn nghệ sĩ đương thời, Dương Quảng Hàm, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Đình Nghị, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Phan Chánh… trên các lĩnh vực, từ văn chương đến hội hoạ, sân khấu, âm nhạc…

Tinh thần này còn chi phối cả hoạt động của ngòi bút Khái Hưng. Ông chính là tác giả một bài báo khá đặc sắc Nhìn qua văn chương Việt Nam, mà sau đây các bạn sẽ đọc.

Hồi ức của những người đương thời cho biết tác giả Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên không chỉ thông thạo văn hoá Pháp mà còn có một căn bản Hán học vững chãi và nói chung là những hiểu biết về nền văn học dân tộc khá chắc chắn. Đọc Tiêu Sơn tráng sĩ, người ta đã thấy điều đó.

Bên cạnh sáng tác, đúng hơn, đồng thời với sáng tác, ở Khái Hưng thường xuyên thức dậy một ý thức về công việc. Những lời giới thiệu mà ông viết cho Thế Lữ (Vàng và máu), Phạm Huy Thông (Tiếng sóng Yêu đương) nhất là lời giới thiệu viết cho Gió đầu mùa của Thạch Lam cho thấy Khái Hưng luôn sống với văn học bằng cả trái tim và khối óc. Sự quan sát của ông không chỉ hướng ra đời sống mà còn quay vào xem xét, phân tích những sắc thái riêng của nghề cầm bút.

Những ưu thế này sẽ được Khái Hưng tận dụng khi ông đi vào bao quát toàn bộ lịch sử văn chương Việt Nam. Sự hiểu biết, so với thời bấy giờ, có thể gọi là thấu đáo; cách trình bày giản dị, gần với lối nói chuyện trực tiếp, và không ngại xen vào những kỷ niệm cá nhân; sau hết là một tình yêu, một niềm tự hào kín đáo đối với gia sản tinh thần của cha ông… Bằng ấy điều kiện khiến cho bài viết Nhìn qua văn chương Việt Nam tuy ngắn gọn, nhưng cũng khá cảm động, và vẫn có được nét duyên dáng riêng như thường thấy ở văn chương Khái Hưng.

Bài viết in ra lần đầu tiên trên tuần báo Chủ Nhật số ra ngày 19/10/1940. Bấy giờ là lúc Phong Hoá, Ngày Nay không còn nữa, Nhất Linh Hoàng Đạo đã chuyển hẳn đi làm chính trị, trong nhóm Tự lực Văn đoàn chỉ còn vài người như Khái Hưng, Thạch Lam… còn cố kết với văn chương. Nhưng đây là những cố gắng cuối cùng của họ. Chỉ ra được ít số, rồi tuần báo Chủ Nhật cũng đóng cửa. Có lẽ đây cũng là lý do chính khiến cho đến nay, hầu như rất ít người biết tới bài viết đặc sắc này của Khái Hưng.

 

*

*  *

 

Nhìn qua văn chương Việt Nam

Thời Hồng Bàng và Thục, chắc chắn nước ta chưa có văn chương. Hoặc giả chỉ có những câu ca, câu vè mà người ta truyền khẩu cho nhau như ngày nay trong dân Mèo, dân Mán: Người mình chưa có những dấu hiệu, chưa có một thứ chữ riêng để ghi chép lời nói mà giữ lại về sau.

Đến thời nhà Triệu, nghĩa là gần như một thời Bắc thuộc, vì Triệu Đà là một người Tàu, thì có lẽ đã có người An-nam viết văn, văn Tàu, nhưng chắc còn viết dở lắm, chẳng hạn như khi người Pháp mới sang đây, những người mình tấp tểnh viết văn Pháp vậy. Trong thời Bắc thuộc thứ nhất cũng vậy. Sang thời Bắc thuộc thứ hai và thứ ba, trong khoảng gần nghìn năm đô hộ tất phải có nhiều người viết thạo Hán văn, tỷ như Lý Cầm và Lý Tiến, hai nhà văn Việt Nam mà người Tàu đã nói đến trong sử ký văn chương của họ. Song thiết tưởng hai người này viết văn Tàu cũng không hơn gì hai ông Nguyễn Mạnh Tường, Phạm Duy Khiêm viết văn Pháp ngày nay. Và không thể vì thế mà bảo rằng nước mình thời ấy đã có văn chương được.

Ba triều Đinh, Lê (tiền Lê), Lý mới dựng nước, chỉ đủ sức chống với Tàu ở phía Bắc, với Chiêm Thành ở phía Nam, để cố giữ vững nền độc lập. Còn thì giờ đâu mà nghĩ tới văn chương.

Dưới triều Trần, một triều đã mãnh liệt đánh lui quân Mông Cổ sang xâm lược, những người cầm đầu việc nước Thủ Độ là một cho rằng muốn độc lập mãi mãi thì không những phải thoát ly cái ách đô hộ vật chất của Tàu, mà còn phải thoát ly cả cái ách đô hộ tinh thần của họ nữa. Vì thế mà Thủ Độ tổ chức lại làng Việt Nam theo ý riêng một người Việt Nam, chứ không theo cách tổ chức của người Tàu mà các triều trước vẫn giữ nguyên như cũ. Và vì thế, Hàn Thuyên (thế kỷ thứ XIII) sáng tác ra một thứ chữ Việt Nam, chữ nôm, để ghi lấy tiếng mẹ đẻ, để chép những câu ca dao rất phong phú trong dân gian. Từ đó mới thực nhóm lên một nền văn chương Việt Nam và các nhà văn trong nước mới bắt đầu viết quốc văn, trong những giờ nhàn rỗi.

Thực vậy, sau Hàn Thuyên, ta thấy xuất hiện ngay Nguyễn Sĩ Cố, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu (cũng dưới triều vua Trần Anh Tôn, cuối thế kỷ XIII). Các nhà văn ấy đều có viết chơi văn nôm, tuy vẫn dùng văn Hán trong những công việc quan trọng. Mà điều đó là lỗi tại nhà Trần: đã dám mạnh bạo cải cách mọi việc trong nước thì sao không dám mạnh bạo hơn chút nữa, mà bắt dân gian dùng toàn chữ nôm như sáu trăm năm sau vua Quang Trung Nguyễn Huệ? Nhưng thiết tưởng, thời bấy giờ dân gian còn đương thích, đương sính văn Tàu đã dùng trong hơn một nghìn năm thì cũng khó lòng bắt ngay được họ theo dùng hẳn văn nôm.

Dẫu sao bắt đầu từ nhà Trần, văn chương trong nước đã có hẳn hai dòng, song song chảy ngang nhau chứ không phải mỗi dòng chảy một phía trái ngược: dòng bình dân với văn nôm và dòng cao quý với văn Hán. Nhiều khi hai dòng trộn nước, vì các nhà giỏi Hán văn đều có tài văn nôm.

Sang triều Lê thì văn nôm đã được nâng cao. Vì một bậc khai quốc công thần (Nguyễn Trãi) đã dùng chữ nôm để viết hẳn một tập thơ dài, tập Gia Huấn ca; và một vị hoàng đế đã lưu lại cho chúng ta nhiều bài thơ nôm có giá trị. Hơn thế, vị hoàng đế ấy (vua Lê Thánh Tôn) lại còn lập nên một tao đàn, họp với những nhà văn hào trong nước để cùng nhau làm văn nôm chơi. Một thế kỷ sau, một ông trạng (Nguyễn Bỉnh Khiêm) chỉ dùng chữ Hán để đỗ trạng nguyên, còn văn thơ thì viết hầu toàn bằng văn nôm. Có lẽ trạng là bậc tiên tri, biết sau này người Việt sẽ không viết văn Hán nữa chăng? Nhờ thế mà trạng để lại cho chúng ta một tài sản văn chương bất hủ (Bạch vân thi tập).

Nhưng phải chờ đến cuối triều Lê và sang đầu triều Nguyễn, nghĩa là một trăm năm sau nữa nước ta mới thấy xuất hiện các nhà văn trứ danh, với những văn phẩm kiệt tác.

Cuối thế kỷ thứ XVIII, bà Đoàn Thị Điểm dịch tập thơ chữ Hán Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn sang quốc văn. Tác phẩm của bà nổi tiếng ngay trong dân gian. Và cái tên Đặng Trần Côn nay còn được chúng ta nhắc nhỏm là nhờ về tập thơ dịch trác tuyệt của bà.

Cùng thời với bà Đoàn Thị Điểm có cô Hồ Xuân Hương (Thời ấy, trong văn giới có lẽ âm thịnh chăng?) Thơ bảy chữ tám câu thì đến Xuân Hương là tuyệt đích. Người ta có cảm tưởng đó là ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn Việt Nam, không một ai sau này sẽ có thể trèo tới được. Cả các danh nho của ta cũng công nhận thế. Tôi nhớ ngày tôi còn đi học, ông nghè Nghiêm Xuân Quảng có bảo tôi: Về thơ tám câu bảy chữ của ta thì Xuân Hương chiếm bậc nhất. Bậc nhì không có ai, bậc ba không có ai, bậc tư mới đến Yên Đổ.

Trong thời ấy còn phải kể tên hai thi sĩ nữa: Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều và Chiêu Lỳ Phạm Thái.

Ôn Như Hầu viết văn Hán rất nhiều. Nhưng nay người ta chỉ còn nói đến một tác phẩm văn nôm tập Cung Oán Ngâm Khúc một tập thơ ai oán và sâu sắc: chỉ tiếc còn dùng nhiều chữ nho quá.

Phạm Thái tức Phạm Phụng (1757-1793) mà người ta thường gọi ông là Chiêu Lỳ, lưu lại tập Sơ kính tân trang và nhiều văn thơ có giá trị. Đó là thi sĩ lãng mạn thứ nhất của ta, nếu ta có thể đem chữ lãng mạn gán cho nhà sư cách mệnh trẻ tuổi hay uống rượu làm thơ tình ấy.

Thế kỷ thứ XIX của ta, thế kỷ lãng mạn trong văn chương Âu châu, bắt đầu bằng một kiệt tác, có thể nói một tác phẩm có giá trị nhất của nước ta. Đó là quyển Kim Vân Kiều dài hơn ba nghìn câu thơ điêu luyện, mà ngày nay vẫn có người dám ngờ là một tập thơ dịch ở chữ Hán. Không, đó là một sáng tác dựa vào một đoản thiên tầm thường của người Tàu mà viết ra. Mãi sau này người Tàu thấy quyển Kiều hay mới đem dịch lại sang chữ Hán, dịch một cách vụng về, thiếu nghệ thuật.

Thế kỷ này có thể gọi được là thế kỷ phục hưng của văn chương Việt Nam. Sau Nguyễn Du, các nhà văn trong nước đều đua nhau dùng chữ Việt vì thấy đó là một thứ chứ phong phú chẳng kém chữ nho.

Vì thế những văn hào Việt Nam ngày một nhiều, mà dưới đây tôi chỉ xin ghi tên để một lần sau, sẽ có dịp nói riêng đến từng người: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Tuy Lý Vương, Ngô Điền, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Đình Tân, bà Thanh Quan, Dương Khuê, Dương Lâm, Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương, v.v…

Khái Hưng

2. Xuân Diệu và một quan niệm

cởi mở về tính dân tộc.

 

Là một thành viên chính thức của Tự lực Văn đoàn vào những năm 1940, đối với mấy tờ báo là cơ quan chủ chốt của Văn đoàn này như Phong Hoá, Ngày Nay, Xuân Thiệu có sự cộng tác thường xuyên. ở đó, chẳng những ông cho đăng thơ mà còn cho in truyện ngắn và tiểu luận.

Tuyển tập Xuân Diệu tập II (in ra 1987) được xác định là dành riêng cho truyện ngắn, bút ký, song đã lấy vào một bài tiểu luận ngắn của tác giả Gửi hương cho gió. Đó là bài Thơ của người in trên Ngày Nay số ra ngày 7-8-1938.

Lần này, chúng tôi xin giới thiệu một tiểu luận ngắn khác của Xuân Diệu in trên Ngày Nay năm 1939 liên quan đến một vấn đề mà nhiều người hằng quan tâm, và giữa tháng 4-1994, đã trở thành chủ điểm của một cuộc hội thảo rộng rãi, đó là vấn đề tính dân tộc trong thơ.

Chúng ta sẽ gặp ở đây một cách hiểu khá rộng rãi của Xuân Diệu:

Ông không chỉ nghĩ tính cách dân tộc là một cái gì nhất thành bất biến. ngược lại, từ kinh nghiệm của riêng một người đang làm việc, ông bảo chúng ta phải mở cửa, phải biết tiếp nhận. Có những cách nói lần đầu khó nghe rồi dần dần sẽ quen. Chừng nào còn là người Việt, những cái chúng ta viết ra sẽ là văn chương Việt Nam. Không phải chỉ có một lối “giản dị” “chân quê” mới là dân tộc, như có người đã nghĩ!

Về mặt giọng điệu, Xuân Diệu năm 1939 cũng là Xuân Diệu những năm về sau, tự nhiên, nhẹ nhàng mà không kém phần duyên dáng. Văn ông không sa vào biền ngẫu song lại luôn luôn tạo được âm hưởng riêng. Câu văn như lời trò chuyện dung dị, thỉnh thoảng lại có cái đột ngột của một thứ đối thoại tâm tình. Đọc những bài viết viết ra từ 1939 này, người ta vẫn nhận ra nét bút riêng của con người sau này sẽ viết nên Tiếng thơ, Dao có mài mới sắc, Và cây đời mãi mãi xanh tươi v.v…

Để lưu ý rằng bài viết ra đời đã hơn nửa thế kỷ và cũng là để tôn trọng một cây bút đã quá cố, chúng tôi cố ý giữ nguyên một số từ ngữ được Xuân Diệu sử dụng từ hồi ấy, từ cách gọi Việt Nam là An nam, Trung Hoa và Tàu… cho đến cách chép tên đầy đủ người nước ngoài mà không phiên âm, và thỉnh thoảng lại chú thích nguyên văn tiếng Pháp của một, hai danh từ mới nhập vào Việt nam.

*

*  *

 

Tính cách “AnNam” trong văn chương

Có lẽ ý tôi sẽ ngược với rất nhiều người, song tôi cũng mong được có cái tự do tư tưởng, nói những điều tôi thành thực tin, dù bị công kích cũng đành.

Văng vẳng ở đâu đây, tôi được nghe người ta bảo: Văn chương An-nam phải có tính cách An-nam.

Thực là chí lý: thực là một điều dĩ nhiên quá: chẳng những viết văn An-nam lại hoá ra viết văn Tây. Nhưng cái thuyết tính cách An-nam là một thuyết dễ làm cho ta nhầm; chỉ một chút cố chấp, một chút hủ lậu cũng đủ biến cái thuyết đẹp đẽ kia thành ra một thuyết chật hẹp, nông nổi.

Người An-nam là người An-nam, chứ người tây sao được? Dù có Âu hoá đi nữa, cái đặc biệt của nòi giống vẫn còn ở trong máu, trong từng thớ thịt, từng miếng da. Văn chương Việt Nam cũng vậy. Cái ngô nghê phải chết, cái lố lăng phải mất, sự nô lệ trong văn chương không thể nào tạo nên được những tác phẩm lâu bền. Phải, văn mỗi nước có một tinh thần, khó có thể diễn tả ra cho rõ được; ta phải có một thứ cảm xúc riêng để cảm nghe cái tinh thần ấy. Đời nào văn Việt Nam lại dung túng những lối văn sống sượng, một lối văn nô lệ cho văn Tàu hay văn Tây! Trong văn chương cũng có một luật đào thải tự nhiên; những cái phản với tinh thần quốc văn tất phải tiêu diệt.

Tôi nghĩ chúng ta không càn phải quá áy náy, lo rằng văn chương Việt Nam mắc cái bệnh làm tây; những cỏ dại không hợp thuỷ thổ sẽ chết ngay từ khi gieo giống.

Chúng ta phải giữ gìn cho tính cách An-nam. Điều ấy rất phải. Nhưng giữ gìn bờ cõi có phải là đóng hết cửa biển, tuyệt hết giao thông, bế tắc cả nước lại đâu! Giữ gìn không là quẩn quanh trong một vũng ao tù, không phải là đành tâm mến yêu một cảnh nghèo đói. Văn chương Việt Nam được giữ kín một cách chắc chắn là tiếng Việt Nam (la langue Annamite) có hình thức, có mẹo luật riêng. Ta viết bằng quốc văn dùng những chữ (les mots) An-nam, theo một cú pháp An-nam và theo cái tinh thần riêng, mà ta cảm nghe rất rõ; tiếng An-nam cũng như một khí cụ, ta biết khéo dùng cái khí cụ ấy, dùng cẩn thận thì thôi; hà tất phải khư khư chạy đi tìm một cái cổ hủ nào rất vu vơ, mờ mịt?

Cái học Âu-tây đã làm cho chúng ta tinh vi, kỹ lưỡng; vì sao chúng ta không nói những điều ấy trong văn Việt Nam? Ta viết văn An-nam ta tả những tình cảm của ta, thì có gì hại cho văn An-nam chứ? Chúng ta là những người An-nam có chịu ảnh hưởng Âu-tây, nhưng vẫn là người An-nam. Mà người Âu tây là gì? Họ cũng vẫn là người. Trừ những điều riêng tây quá, chứ cái kho, cái đáy, cái vốn của con người ở đâu đâu cũng giống nhau. Trong lòng An-nam của chúng ta vẫn có phần nhiều những ý, những tình, những cảm giác mà người tây có. Xưa kia ta không nói là vì ta không ngờ; bây giờ cái não khoa học của Âu tây đã cho biết rằng ta có, vẫn có đã lâu những của cải chôn giấu ở trong lòng, thì sao ta không nói? Miễn là ta dùng tiếng An-nam và dùng đúng, tức là ta viết văn An-nam. Khi xưa, đất An-nam cũng vẫn có những dầu hoả đấy chứ; cái dầu hoả mà khoa học Âu tây tìm ra trên đất An-nam có phải là dầu hoả tây hay không?

Với lại có những cách phải dựa theo tây mà nói, nếu không thì không nói được bằng cách nào. Ta phải nhận rằng xưa kia các cụ có mấy khi chịu dùng tiếng An-nam! Một thứ tiếng để lâu quá, ít dùng quá thì cố nhiên ít được khéo léo. Chúng ta phải tạo thêm, phải bày đặt ra những cách dùng mới mà xưa kia các cụ không chịu tìm; vả lại chúng ta ở thế kỷ hai mươi, chúng ta có những cái phức tạp mà các cụ không có. Cái phức tạp là đấy ư? Thế nghĩa là muốn làm An-nam, phải giản dị, đơn sơ như thời trung cổ ư?

Bởi thế, thỉnh thoảng chúng ta phải dùng những chữ bởi, của, trong v.v… những tiếng đưa đẩy mà trước kia các cụ rất ít dùng; và ta lại dùng theo những cách có hơi lạ.

Tôi xin lỗi ông Hoài Thanh vì tôi đã nói: Đại dương của thương nhớ, sa mạc của cô đơn. Tôi nhận rằng chữ của ngô nghê thực. Song le nếu nói: Nỗi thương nhớ mênh mông như đại dương thì hai câu rất khác nhau. Câu dưới là một sự so sánh (une comparaison), câu trên có chữ của là một sự chung hợp, một sự lẫn lộn (une mé taphore). ý của tôi phải dùng một cái métaphore mới tả được; thì tôi phải dùng chữ của dầu cái chữ ấy nghe không quen tai.

Tôi còn nói nhiều về vấn đề này. Một vấn đề mềm mỏng và hệ trọng bao nhiêu! Cốt nhất không phải là thắng trong sự tranh luận; cốt nhất không phải lòng tự ái; chỉ một điều ta nên nghĩ, dầu ta phải hay trái, là tiếng Việt Nam mà ta yêu.

(Ngày Nay ra ngày thứ bảy

28 Janvier 1939 – số 147)

3. Việt Nam văn hoá sử đại cương

một cuốn sách bị lãng quên

In trên giấy dó thô ráp, chữ mờ khó đọc, song đây lại là một cuốn sách bổ sung đắc lực cho Việt Nam Văn hoá Sử Cương (1938) của cùng một tác giả.

Tài liệu nghiên cứu về từng ngành văn hoá một (tư tưởng, triết học, văn chương, mỹ thuật… ) ở ta, tuy đã ít song còn thấy vài bộ. Có một loại sách nghiên cứu, cũng rất cần thiết mà lại ít hơn hẳn, đó là những cuốn tìm hiểu văn hoá nói chung và bàn sâu bàn kỹ về văn hoá Việt Nam nói riêng.

Theo chỗ chúng tôi biết, không kể những bài báo lặt vặt, không kể một số kỷ yếu tập hợp các báo cáo từ các hội nghị chuyên đề thì tới đầu những năm chín mươi mới có một cuốn chuyên khảo lấy toàn bộ văn hoá Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu là Việt Nanm văn hoá sử cương (VNVH sử cương) của Đào Duy Anh, do Quan hải tùng thư in lần đầu 1928. Năm 1951, nhà Bốn Phương ở Sài Gòn đã cho in lại sách này một lần, và gần đây NXB TP Hồ Chí Minh cũng cho tái bản.

Song công trình nghiên cứu văn hoá của Đào Duy Anh không chỉ có thế. Hồi viết VNVH sử cương, ông đã đồng thời soạn thêm Đông Tây văn hoá phê bình, Khổng giáo phê bình tiểu luận. Những năm đầu cách mạng, ông có cuốn sách nhỏ Văn hoá là gì? (1946). Qua những năm kháng chiến, ông còn bổ sung cho VNVH sử cương bằng cuốn sách Việt Nam văn hoá sử đại cương (VNVH sử đại cương), do Nha Tổng giám đốc Bình dân học vụ in vào năm 1950.

Quan hệ của hai cuốn sách có cái tên na ná này ra sao? Trong Thay tựa của VNVH sử đại cương, tác giả cho biết quyển sau “không phải là bản tóm tắt” của quyển trước, mà chúng được triển khai theo hai hướng khác hẳn nhau. Nếu Việt Nam văn hoá sử cương “chia tổng thể văn hoá ra từng môn bộ, và theo phương pháp phân tích để trần thuật về mỗi môn bộ” thì ở quyển sau “đã chia ra thời kỳ để trần thuật theo con đường diên cách của tổng thể văn hoá” (môn bộ, diên cách là những chữ do Đào Duy Anh dùng trong nguyên văn – V.T.N). Tự ông cũng nhận thấy: “Phương pháp dùng trong quyển sách này có thể xem là trái ngược với phương pháp dùng trong quyển sách trước. Nếu ở quyển trước, chúng tôi đã phân tích nhiều hơn tổng hợp, thì có thể nói rằng, ở quyển sách này, chúng tôi đã tổng hợp nhiều hơn là phân tích”.

Tuy chỉ là một tập sách mỏng, tổng cộng có 134 trang khổ nhỏ hơn sách thông thường một chút, nhưng VNVH sử đại cương đã bao quát toàn bộ văn hoá Việt Nam, từ thời kỳ Lạc Việt (chương I), thời kỳ Bắc thuộc (chương II), sau hết là thời kỳ Pháp thuộc (chương IV).

Cần chú ý là VNVHsử đại cương được soạn và xuất bản dưới sự bảo trợ của Nha Tổng giám đốc Bình dân học vụ. Dù chỉ có mực ta, giấy dó, nhà in cổ lỗ, song Nha này đã cho in nhiều cuốn sách quý hình thành nên cả một Tủ sách giáo viên. Bộ biên tập tủ sách này gồm nhiều trí thức tên tuổi đương thời như Tạ Quang Bửu, Tạ Mỹ Duật, Nguyễn Hữu Đang, Trần Văn Giáp, Vũ Đình Hoè, Phan Khôi, Trương Tửu, Tô Ngọc Vân v.v… Về phần mình, cùng với VNVH sử đại cương, Đào Duy Anh còn cho in trong tủ sách này – cũng giấy dó, mực ta – hai tập Việt Nam sử cương (tổng cộng 286 trang). Giữa hai bộ sách có sự quan hệ khá mật thiết. Kết thúc nhiều chương Việt Nam sử cương, Đào Duy Anh ghi chú rằng muốn biết văn hoá Việt Nam thời nay, xin xem thêm mục… mục… của cuốn VNVH sử đại cương.

Có một chi tiết vui vui xin được kể thêm: cuốn sách này của Đào Duy Anh rất ít được nhắc nhở trong các tài liệu nghiên cứu về văn hoá; bản thân người viết bài này, do ngẫu nhiên mà lục tìm lại được. Mới đây, ngày 22/5/1994, trong buổi tới nghe hoạ sĩ Lê Bá Đảng giới thiệu một số tranh, chúng tôi có kể lại với người con thứ của cụ Đào là ông Đào Hùng. Mặc dù cũng là một nhà nghiên cứu lịch sử và văn hoá, ông Hùng tỏ vẻ ngạc nhiên, không tin là có quyển sách đó, cứ gặng hỏi hay là nhầm với VNVH sử cương in 1938. Chúng tôi phải thuyết minh tường tận, ông Hùng mới tin là thật. Người trong gia đình đã không nhớ, nói chi bạn đọc xa gần! Bởi vậy ước ao của chúng tôi là một dịp nào đó, cả VNVH sử cương lẫn VNVH sử đại cương cùng được in lại trong một tập, để chúng ta có một bộ sách đầy đủ về toàn cảnh văn hoá Việt Nam và chân dung nhà nghiên cứu văn hoá Đào Duy Anh có dịp hiện ra trọn vẹn.

 

 

4. Cuộc tìm kiếm giữa màn sương huyền thoại

Giới thiệu cuốn Thơ Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn đến thế tục, tác giả Đào Thái Tôn, NXB Giáo dục 1993.

Trong tâm thức nhiều thế hệ người Việt, thơ Hồ Xuân Hương thuộc loại sáng tác phô bày được gần hết những đức tính cố hữu của dân tộc: đáo để, nghịch ngợm, thích chòng ghẹo, thích thách thức, song, ẩn sâu trong lòng, lại là một nỗi buồn da diết. Buồn cho cuộc đời, buồn cho số phận. Điều đáng tiếc duy nhất ở đây là chúng ta được biết về chính người làm ra những vần thơ trên quá ít. Một màn sương mờ mịt nửa thực nửa hư bao quanh cuộc đời con người tai ngược đó, và vì lẽ nó đã tồn tại quá lâu, nên người ta có xu hướng tin rằng sẽ không bao giờ mọi chuyện có thể minh bạch, tức không bao giờ có cái cảnh “tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”. Chẳng phải là trong nhiều hình thức của văn hoá, chẳng hạn như trong áo quần, con người nơi đây đã tỏ rõ là rất thích những vẻ đẹp lờ mờ, bảng lảng, nửa như mời gọi nửa như giấu kín? Trong nhiều mối quan hệ ở đời, sự biết thật tường tận về nhau, chắc đâu đã là điều kiện để mối giao tình mãi mãi bền chặt.

Nhưng khoa học – ở đây là khoa học xã hội – lại không cho phép người ta sống yên ổn bên cạnh màn sương bí ẩn đó.

Từ lâu các nhà nghiên cứu lịch sử văn học ở nước ta đã bảo nhau lục lọi mọi tài liệu, đối chiếu mọi văn bản, soát xét lại tất cả những gì có liên quan đến ba chữ Hồ Xuân Hương. Không phải là họ không biết những huy hiểm đang rình rập, nỗi nguy hiểm dám thách thức mọi người khi kéo cái thiêng liêng trở về đời sống phàm tục. “Không để làm mất đi vẻ lung linh của một Hồ Xuân Hương bấy lâu tồn tại sau khi dặn dò nhau cặn kẽ, họ mới bắt tay vào công việc. Và bởi cũng biết rằng họ đã thành tâm bảo nhau như vậy, tự biết rằng không ai lấy đi được một Hồ Xuân Hương thi trung hữu quỷ bấy lâu đã sống trong lòng dân tộc, nên chúng ta, những người đọc, mới có đủ niềm tin để bình tâm theo dõi công việc của họ, cổ vũ cho những thành tựu khó khăn mà họ đạt được.

Trong số những người có công nhiều nhất trong việc gỡ ra những rắc rối chung quanh cuộc đời Hồ Xuân Hương có hai nhà nghiên cứu lão thành có công hơn cả, song một đã quá cố là Trần Thanh Mại (1911-1965); một đang sống xa tổ quốc, là Hoàng Xuân Hãn. Điều đáng nói nữa là tài liệu nghiên cứu của các ông thuộc loại văn bản khan hiếm, bạn đọc bình thường có muốn tiếp xúc cũng rất khó.

Có lẽ vì nghĩ vậy, nên nhà nghiên cứu trẻ Đào Thái Tôn (gọi là trẻ nhưng cũng đã trên 50), mới dứng ra đảm nhận công việc tổng kết tìm tòi của người đi trước, hệ thống hoá lại các hiểu biết đến nay có được về Hồ Xuân Hương, cũng là trình bày thêm một số giả thiết riêng của mình. Công việc được làm một cách biết điều, chừng mực, có lý có tình, nên đáng được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc.

Trước tiên về tiểu sử nhà thơ, theo bước những người đi trước, Đào Thái Tôn lần lượt khẳng định:

– Có một Hồ Xuân Hương thật sống vào khoảng cuối thế kỷ XVIII tới những năm hai mươi ba mươi gì đó của thế kỷ XIX (có thể xê xích ít chút, nhưng phải trước 1842 khá lâu).

– Một số chi tiết đã quá quen thuộc, như chuyện xướng hoạ với Phạm Đình Hổ;  chuyện làm lẽ ông phủ Vĩnh Tường… là gán ghép. Thời Xuân Hương sống, chưa có phủ Vĩnh Tường. Theo các chuyên gia về lịch địa danh cho biết, cái tên Vĩnh Tường mới có từ 1922.

– Ngược lại, lúc trẻ, Xuân Hương lại có mối giao tình khá thắm thiết với thi hào Nguyễn Du.

Về mặt văn bản, lâu nay người ta đã tìm ra nhiều sách vở, chữ nôm cũng như chữ Hán, ít nhiều dính dáng đến Hồ Xuân Hương, như Lưu Hương Ký, Xuân Đường đàm thoại. Nhưng trong việc xác dịnh văn bản và tiểu sử Hồ Xuân Hương hai cuốn này có vị trí khác hẳn nhau. Bài văn mang tên Xuân Đường đàm thoại có liên quan đến một kỹ nữ nào đó, sống vào thời Tự Đức. Còn Lưu Hương Ký mới liên quan đến Hồ Xuân Hương mà chúng ta cần tìm kiếm. Nhà nghiên cứu lão thành Hoàng Xuân Hãn đã xác định hai chữ sương siu có nghĩa là bịn rịn trong câu thơ nôm của Xuân Hương in trong Lưu Hương Ký.

Biết còn mảy chút sương siu mấy

Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

Và cái dấu tích ngôn ngữ này có thể nói là chứng cứ cuối cùng để không ai còn nghi ngờ về quyền tác giả của Hồ Xuân Hương đối với Lưu Hương Ký.

Đến đây, có một câu hỏi đặt ra: đã biết là có Lưu Hương Ký như vậy, thế sao nhiều cuốn tuyển thơ Hồ Xuân Hương lâu nay, kể cả những cuốn được coi là nghiêm chỉnh như của Nguyễn Lộc in ra năm 1986 vẫn không coi Lưu Hương Ký là chính bản, mà chỉ xếp vào phần tồn nghi, đưa ra để tham khảo? Vấn đề là ở chỗ giữa bộ phận thơ nôm lâu nay vẫn truyền tụng và thơ Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký, nên coi cái nào là chuẩn. Nhiều người lấy bộ phận “vẫn truyền tụng” làm chỗ dựa, nên có cái khó: xem ra thơ trong Lưu Hương Ký quá “nghiêm túc”, quá “bác học”, không sao hoà nhập hoàn toàn với những bài thơ “thi trung hữu quỷ” quái ác kia. Về phần mình, Đào Thái Tôn đề nghị cách làm ngược lại: lấy Lưu Hương Ký làm thước đo, làm hệ quy chiếu. Và đề nghị chỉ nên coi những bài thơ nôm nào có thể hoà nhập với Lưu Hương Ký mới có khả năng gần đúng là của Hồ Xuân Hương. Từ đây, Đào Thái Tôn trong phần tuyển thơ đã mạnh dạn làm công việc lựa chọn lại, đẩy hàng loại những bài thường đã bị “vơ quàng” là thơ Hồ Xuân Hương sang vị trí chầu rìa: ốc nhồi, Đánh du, Dệt cửi, Khóc ông Phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Vịnh cái giếng v.v…Cố nhiên không phải là bao nhiêu thơ “đố tục giảng thanh” bấy lâu được coi là của Hồ Xuân Hương đều bị gạt đi hết. Với tất cả tinh thần nghiêm túc vốn có, Hoàng Xuân Hãn đã lưu ý rằng có thể bản thân Hồ Xuân Hương cũng đã làm nhiều bài thơ có phong cách nghịch ngợm, nhưng chẳng qua là làm để đối phó lại với đám nho sĩ ưa chòng ghẹo chứ chả chí thú gì. Có điều chính những bài thơ mà bà cho là hạng hai đó, lại được dân gian tiếp nhận một cách hào hứng, và xem đó là tiếng nói chính của bà. Tình hình đó đòi hỏi người nghiên cứu Hồ Xuân Hương phải có thái độ thận trọng. Đào Thái Tôn đã ghi nhớ những gợi ý đó của Hoàng Xuân Hãn trong lựa chọn. Ngoài phần phụ lục, nhưng bài thơ nôm được đưa vào chính văn cũng chỉ được xác định là “Nhóm thơ nôm truyền tụng” – một cách gọi khiêm tốn, nhưng có lẽ là khá thích hợp với tình hình văn bản thơ Hồ Xuân Hương hiện nay.

Cuối cùng, một công phu của Đào Thái Tôn trong tập sách nghiên cứu này là hệ thống hoá các văn bản chép thơ Hồ Xuân Hương bằng chữ quốc ngữ từ cuối thế kỷ trước tới đầu thế kỷ này, bao gồm các văn bản 1893, 1909, 1911, 1913, 1921, 1922, 1932, để rồi chỉ ra một sự thực: từ chỗ những tập đầu chỉ có sáu bảy chục ở những tập sau, con số thơ Xuân Hương đã lên tới 139. Rõ ràng ở đây có hiện tượng phần thơ chính của nhà thơ bị xâm thực bởi dòng thơ ca dân gian. Sau khi Xuân Hương mất đi, thơ Xuân Hương đã trở thành một dòng chảy tự phát cứ thế dầy dặn thêm, phong phú thêm. Còn tiểu sử của bà thì như trên đã nói, được thêm thắt bịa đặt khá nhiều, tạo nên cả một huyền thoại có sức sống dai dẳng. Cả hai quá trình này – dân gian hoá văn bản và huyền thoại hoá tiểu sử – cùng tồn tại song song với nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên một hiện tượng độc đáo trong văn học Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên Đào Thái Tôn viết trong đoạn kết phần nghiên cứu của mình:

Cuốn sách hẳn còn nhiều sai lầm. Tôi chỉ mong đó là những sai lầm hợp lý hơn những sai lầm của người đi trước.

Và vì thế cuộc đời và thơ văn Hồ Xuân Hương vẫn là một đề tài khoa học đáng quan tâm của những người nghiên cứu hôm nay, ngày mai”.

Khi đã đọc kỹ thơ Hồ Xuân Hương và tìm hiểu mọi mặt hiện tượng Xuân Hương thì chắc không ai nghĩ rằng đó là lời khách sáo.

 

 

5. Hồ Xuân Hương với Rabelais Villon và Dostoievski

 

Trong cuốn Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, phần viết về Hồ Xuân Hương, ở trang 86, nhà thơ Xuân Diệu có ghi “ở Liên Xô, đã xuất bản một tập thơ Hồ Xuân Hương, dịch ra tiếng Nga (do Nikulin)”. Sau những nhận định mạnh mẽ cả quyết, một câu có vẻ thông tin thuần tuý như thế này lại được tác giả viết ra không dứt khoát lắm khiến bạn đọc lên có thể hơi ngần ngại.

Sự thực thì như thế nào?

Đúng là có một tập thơ Hồ Xuân Hương được dịch ra tiếng Nga thật. Đó là tập Hồ Xuân Hương, Thơ; NXB Khoa học; Moskva;1968. Nhưng tên người dịch cũng đã được ghi rõ ràng ở trang 3 là Genadi Jaroslavtsev và chỉ trang 4 mới chua thêm N.I. Nikulin biên soạn và chú giải.

Tuy nhiên điều đáng nói nhất qua tập thơ 128 trang và in mười ngàn bản này là cách hiểu của soạn giả và dịch giả về Hồ Xuân Hương, ở đó hé ra cách hiểu về thơ khá thú vị.

Nguyên những người thường xuyên tìm hiểu công việc nghiên cứu văn học ở Liên Xô mấy chục năm nay đều biết tên tuổi của M.M.Bakhtin với cuốn chuyên khảo kiệt xuất Những vấn đề thi pháp Dostoievski (in lần đầu 1929, sau đó in lại nhiều lần còn được dịch in ở Pháp và nhiều nước khác). Qua năm 1965, cũng thuộc về ngòi bút của nhà nghiên cứu này, còn có một công trình khác được xuất bản, và được coi là đặt nền móng cho nhiều vấn đề lý luận văn học quan trọng, đó là cuốn Sáng tác của Rabelais và nền văn hoá dân gian trung thế kỷ và Phục hưng. Theo như cách nói của một người bạn và người học trò của Bakhtin là L. Pinski thì Bakhtin “nhìn thấy ở Rabelais một đỉnh cao của dòng sáng tác dân gian phi chính thống và chỉ một lần bột phát trong dòng văn học cao cấp vào thời Phục hưng”. N. Nikulin hoàn toàn tán thành quan niệm đó. Theo Nikulin, ý kiến của Bakhtin có thể giúp chúng ta tìm ra cách tiếp cận mới đối với hệ thống mỹ học của Hồ Xuân Hương. Tương tự như Rabelais, sáng tác của Hồ Xuân Hương đối với chúng ta dường như là sự bột phát của nền văn hoá dân gian trung cổ còn chưa được công nhận vào khu vực sáng tác ngôn từ “bác học” “cao cấp”.

ở một đoạn khác, Nikulin khi phân tích tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương còn liên hệ với tiếng cười dân gian lúc ấy (chủ yếu là trong sân khấu) và ông dùng khái niệm tiếng cười có ý nghĩa kép (tiếng Pháp: ambivalence) với nghĩa trong tiếng cười đó (ở đây là tiếng cười của Hồ Xuân Hương) có cả phủ nhận lẫn khẳng định, cả chê bai lẫn khen ngợi; ở đó cái chết và sự sinh thành như quyện lấy nhau chặt chẽ. Khái niệm ambivalence cũng là do Bakhtin khởi xướng và đưa vào sử dụng trong công trình nghiên cứu về Rabelais. Chúng tôi không có điều kiện trình bày đầy đủ, lại càng không có nhiệm vụ bình luận nhận xét trên đây của Nikulin, song theo chúng tôi hiểu thì các chuyên gia về Hồ Xuân Hương ở ta có lẽ cũng nên tiến hành đối thoại với nhà nghiên cứu Xô viết về vấn đề này, biết đâu từ đó chẳng nẩy sinh nhiều quan sát sâu sắc khác.

Bên cạnh Lời mở đầu của Nikulin, cuốn Hồ Xuân Hương. Thơ còn in ở cuối sách Lời người dịch. Đứng về nghiệp vụ xuất bản mà xét thì đó là một ngoại lệ, chứng tỏ sau khi làm việc, dịch giả có rất nhiều suy nghĩ và thấy cần phải chia sẻ với bạn đọc những điều tâm đắc của mình. G. Jaroslavtsev nói gì sau khi dịch nhà thơ Việt Nam độc đáo này? ở một chỗ ông nói rằng tính đa nghĩa và giàu liên tưởng cũng là chất grô-tét (grotesque, có nghĩa là kỳ quặc, dị thường) trong các hình tượng do Xuân Hương gợi ra khiến ông nhớ tới chủ nghĩa tự nhiên có phong cách gô-tích của F. Villon (1431-1465). Đây cũng lại là một nhận xét mà chỉ những người có hiểu biết sâu rộng về những nền văn học khác nhau mới dám phát biểu. Sau gợi ý Hồ Xuân Hương và Rabelais của Nikulin, sự tương ứng giữa Hồ Xuân Hương và Villon do Jaroslavtsev nêu lên, nếu được chứng minh đầy đủ, chỉ làm cho nữ thi sĩ của chúng ta thêm lớn. Bởi mặc dù sống và viết từ năm thế kỷ trước nhưng Villon thường được các nhà thơ Pháp thế kỷ hai mươi hết sức ca ngợi, họ cho rằng thơ Villon có một cốt cách rất  hiện đại. Đây là mấy câu thơ tự thuật mang đậm chất tưng tửng đùa cợt ông làm lúc bị kết án tử hình “Tôi là Francois có chi mà tôi thích nhưng than ôi thần chết – đang chờ tôi đây này mông nặng mấy cân đây rồi cái cổ khắc biết.

Sau hết cũng hết sức thú vị là sự so sánh Xuân Hương và một nhân vật của Dostoievski do Jaroslavtsev nêu ra, nhằm từ đó đặt vấn đề nhận diện Hồ Xuân Hương. Trong phần cuối bài viết súc tích của mình Jaroslavtsev gợi ý: “Thời gian không lưu lại chân dung Hồ Xuân Hương. Nhưng thơ bà đã khắc lên rõ nét khuôn mặt con người kỳ tài ấy. Trong tâm trí của một người dịch như tôi, khuôn mặt của Xuân Hương hiện lên qua thơ rõ rệt khiến tôi nhớ lại một cách sinh động hình ảnh con người tuyệt vời của Nastasia Filippovna. Sở dĩ một so sánh có vẻ bất ngờ đó không thể gọi là bất ngờ bởi lẽ số phận riêng, tính cách, khao khát của nữ thi sĩ đất Việt và nữ nhân vật của Dostoievski trong Chàng ngốc có nhiều chỗ giống nhau một cách kỳ lạ”. Jaroslavtsev viết tiếp: “Xét trên ý nghĩa và đặc điểm của nó, lời thách thức táo tợn của Hồ Xuân Hương với bọn quan lớn quan nhỏ và lũ sư mô giả dối chung quanh bà rất gần với sự nổi loạn của Nastasia Filippovna chống lại nhưng tên như gã quý tộc Totxki, tên tướng Epantsin và Ivolghin. Từ chỗ đứng của sự thật và chính nghĩa, hai người cùng ném vào mặt kẻ thù những lời tố cáo gay gắt, tố cáo chúng đã cướp đi ở mình cái quyền tối thiểu của tuổi trẻ là quyền được yêu, được sống  hạnh phục. Đồng thời trong thơ của người nữ thi sĩ Việt Nam cũng như trong tính cách của nữ nhân vật trong Dostoievski thấy kiên trì vang lên như một nốt đàn cao cái cảm giác chính xác về ưu thế riêng của mình… chính đó là những  yếu tố làm cho họ trở nên hết sức gần gũi với nhau:

… Dù là chưa nói đến phạm vi của khoa nghiên cứu văn học theo lối so sánh, chỉ với tư cách cảm tưởng, ấn tượng của người biên soạn và người dịch thơ, những nhận xét trên đây của Nikulin và Jaroslavtsev rất đáng để chúng ta trân trọng. Trong cái việc mang thơ Hồ Xuân Hương đặt bên sáng tác của những văn hào nổi tiếng khác, mang con người Xuân Hương đặt bên những tính cách đã thành tiêu biểu trong văn học thế giới, hai nhà nghiên cứu đã giúp chúng ta đến với nhà nữ thi sĩ kỳ tài và những sáng tác của bà bằng những nẻo lối mới có kết quả hơn. Trong nghiên cứu văn học xưa nay vẫn có chuyện đó: con đường để đi tới một đỉnh cao nhiều lúc lại phải đi vòng qua những đỉnh cao khác. Muốn hiểu cho thấu đáo sâu sắc một thi hào của dân tộc mình, chúng ta phải có thêm hiểu biết về các nhân vật cự phách trong các nền văn học khác. Và nếu như lúc nào đó, có ai tập hợp được tất cả ý kiến của các tác giả nước ngoài về Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương của ta, biết đâu chẳng có một cuốn sách thú vị? ít nhất, nó cũng có tác dụng kích thích với công tác nghiên cứu trong nước.

 

6. Tính hiện đại của Nguyễn Công Trứ

 

Một nhà thơ lớn Xô-viết, hình như là Tvardovski, có lần nhận xét: Mỗi thế hệ lại làm giàu thêm cho các tác giả cổ điển. Và Puskin trong thời đại chúng ta trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn Puskin thế kỷ XIX. Tại sao? Lý do ở đây rất đơn giản:

Mỗi thế hệ đều tìm thấy ở những tác giả lớn ấy những nét tương đồng với thời đại họ đang sống.

Và họ sẵn sàng gọi con người mà họ vừa phát hiện lại đó, là người đương thời của mình.

Một nhận xét như thế cố nhiên cũng có thể ứng dụng cho các tác giả lớn trong văn học Việt Nam. Mặc dù còn bị nhiều hạn chế, song cùng với năm tháng qua đi, những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương vẫn được các thế hệ tiếp nối khai thác và cũng đã ngày một trở nên phong phú hơn bao giờ hết.

Với Nguyễn Công Trứ cũng vậy. Là một tác giả sống và viết chủ yếu vào nửa đầu thế kỷ XIX, song ở ông có những khía cạnh mà các thế hệ sau khai thác mãi không hết.

Tôi chưa có dịp tìm hiểu hết những tài liệu mà các nhà văn, nhà nghiên cứu thời tiền chiến viết về Nguyễn Công Trứ. Nhưng về lý mà xét, có thể dự đoán là một nhân cách sôi nổi, ngông nghênh, ngoạo ngược, một con người không mặc cảm trong sống và viết như Nguyễn Công Trứ, hẳn là dễ được các nhà thơ tiền chiến hết sức tôn sùng, bởi lẽ họ tìm thấy ở đấy một con người gần gũi với chính họ.

May mắn một lần, đọc tạp chí Tao Đàn 1939, tôi tìm ra được bài viết sau đây của Lưu Trọng Lư. Bài viết khá ngắn:

 

*

*  *

 

Nguyễn Công Trứ, nhà thi sĩ

của nghệ tĩnh sau một trăm năm…

Nhà thi sĩ Nguyễn Công Trứ chết đến nay vừa đúng một trăm năm[1]. Nhiều tờ báo tây, nam ở đây hô hào kỷ niệm vị danh nhân ấy, vị danh nhân mà tất cả  những người Việt Nam đều phải công nhận là xứng đáng với sự tôn thờ của hậu thế.

Nguyễn Công Trứ không những chỉ là một thi sĩ của quốc gia, mà còn là bậc công thần xứng với nền quân chủ, một nhà nho xứng với thánh đạo, hơn thế nữa, một võ tướng có thao lược, một nhà chính trị có tài kinh luân, một người có tiết tháo. Cái sự nghiệp của tiên sinh ai cũng biết rõ, không cần phải nhắc lại nữa. Ta chỉ nên ký nhận rằng trên tâm hồn của tiên sinh, trên thân thể của tiên sinh đã un đúc, đã tụ kết lại bao nhiêu cái hay, cái đẹp, cái hùng, cái mạnh của một nền văn hoá cũ và nhất là của cái tinh hoa chủng tộc.

Thật là sự điều hoà kỳ diệu của những cái tương phản nhau: sự điều hoà của Mộng và Thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử với cái nề nếp của một nho sinh, và cuối cùng là sự điều hoà của thơ, văn với Khổng giáo. Nguyễn Du muốn là người bạn hoàn toàn của thơ văn, đã phải lảng Nho mà theo Phật… Nguyễn Công Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho mà vẫn khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của Lão Trang. Tiên sinh vừa hàn binh, trị nước, vừa ngâm hoa vịnh nguyệt, mà cái này không hại đến cái kia.

Thành thực ta phải nhận rằng Nguyễn Công Trứ không có cái nghệ thuật điêu luyện của Chu Mạnh Chinh, Nguyễn Thị Điểm, không có cái tâm hồn uyển chuyển của Nguyễn Du, hay cái giọng điệu dễ dàng của Hồ Xuân Hương, nhưng ở trong thi văn của Nguyễn Công Trứ, một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt Nam một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử. Cái thể ca trù nhờ phép thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với những sự xuất diễn hùng mạnh… Tôi nhớ như có một lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều thật không phải là một lời nói vu vơ. Điệu ca trù, còn hơn là một sức mạnh nữa. Nhưng khi những bài thơ ấy, ngân lên với điệu phách nhịp đàn, thì ta lại thấy nó có một vẻ hào phóng, vừa lả lơi vừa kín đáo, vừa gắn bó, vừa sỗ sàng. Nó là một thứ sản vật hoàn toàn Việt Nam, nó phải lâu dài với đất nước. Một ngày kia, năm bảy trăm năm sau, trong cái đám hậu lai man mác, nếu có một người nào còn ngâm được một bài ca trù của Nguyễn Công Trứ chẳng hạn, tôi tin rằng người ấy sẽ có một mối u hoài sâu nặng, bâng khuâng nhớ tiếc một cái gì không bao giờ còn có nữa, một cái gì rất Việt Nam, nhớ tiếc một thời khoáng dật, to nhớn, rộng rãi và kiêu sa. Cái thời buổi của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm cụi với nhân sinh, nhưng cũng là những kẻ bốc giời, phung phí mà không tiếc tay, những kho tàng  của vũ trụ, những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ mà cũng biết vỗ cái đùi non mà dốc hớp rượu cuối cùng…

Cho nên, sau một cuộc đời sóng gió, hoạt động, Nguyễn Công Trứ hàng ngày thường  thắng một cái xe bò mà ngao du sơn thuỷ. Đó cũng chỉ là để tỏ một lần nữa rẳng: sua khi là một bậc công thần, một tay thao lược, một kẻ chiến sĩ, Nguyễn Công Trứ ung dung và thích thảng, đánh xe đi ra ngoài cõi thế, vừa phẩy quạt vừa mỉm cười, để đùa với cuộc chơi, đùa với số mệnh.

Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân đáng lưu truyền hậu thế, mà là một quan niệm về nhân sinh đáng truyền bá ra giữa một cuộc đời Âu Tây chật vật.

Một người như Nguyễn tiên sinh, khi là một vị đại thần, rồi khi chỉ còn là một tên lính nhỏ, rồi từ một tên lính nhỏ, lại nhảy lên địa vị một bậc tướng quân, đánh Nam dẹp Bắc, cho đến khi về già, thắng một cái xe bò, và cạnh cô hầu non, ngao du khắp chín mươi chín đỉnh Hồng Sơn, một người như thế hẳn có thể dạy ta được một cái gì mới về sự sống của con người. Thật là lãng mạn, thật là ngông, nhưng mà người ấy đã là một kẻ giúp đời và có công lớn với Tổ quốc. Nguyễn Công Trứ đã tỏ cho chúng ta thấy rằng: văn chương và hành động là hai điều biệt lập, và một tâm hồn lãng mạn cũng không thể hại đến chí chiến đấu, nếu quả người ta muốn chiến đấu.

Lưu Trọng Lư

*

*  *

 

Về mối liên hệ tinh thần giữa Nguyễn Công Trứ và các nhà văn nhà thơ tiền chiến, có lẽ phải một dịp khác, chúng ta sẽ trở lại khai thác đầy đủ hơn. Sau bài viết của Lưu Trọng Lư chỉ xin nói một câu tóm tắt: Nhờ phát hiện của thế hệ tiền chiến mà tiêu biểu là bài viết trên, chúng ta cảm nhận rõ hơn sự đa dạng, tính muôn màu muôn vẻ của con người cá nhân trong Nguyễn Công Trứ. Hình như với nhà thi sĩ đặc chất Nghệ Tĩnh này, những Xuân Diệu, Lưu Trọng Lưu, Vũ Hoàng Chương… cảm thấy có thể thêm lý do để sống hết mình, sống một cách thật thích thảng khoáng đạt, như họ thường mong muốn.

Thế nhưng không phải như thế hiện tượng Nguyễn Công Trứ đã được khai thác một cách cạn kiệt.

Từ góc độ của con người hôm nay chúng tôi muốn nêu lên thêm một số nhận xét, có liên quan đến sự trưởng thành của con người cá nhân ở Nguyễn Công Trứ.

Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Công Trứ là Bài ca ngất ngưởng:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng

Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Nếu chúng tôi không lầm, thì đây là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, một nhà thơ tự nói về mình bằng một đại từ ở ngôi thứ ba (ông). Nghĩa là tác giả nhìn mình như một kẻ khác. Hình ảnh bản thân được lạ hoá, không phải theo lối nhún nhường tự hạ mình mang đầy mùi vị giả dối, mà là nối một cách khách quan, một cách xác đáng, đến mức dám đưa vào những chi tiết rất chướng như Độ môn giải tổ chi niên – Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng hoặc Gót tiên theo đủng đôi một đôi dì – Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng, nhưng nhờ thế, giọng thơ ngông nghênh mà không đáng ghét.

Như các nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ đã phân tích, ở con người Uy Viễn tướng công như có sự tách biệt ra rõ rệt, bên cạnh một con người hành động (một kiểu hành động thật quyết liệt) có con người thích hưởng nhàn, ra sức cổ vũ cho thú vui chơi và đã chơi cũng là chơi cho thật thoả thích, “chơi cho thủng trống long bồng”. Là nhà nho chính thống, trong ông có một niềm tin rất bền vững, tin rằng đã làm người thì phải có phận sự, phải tuân theo những điều thánh hiền dạy. Niềm tin này ở ông là không thể bàn cãi. Ông nói một cách thô lỗ, theo kiểu cưa đứt đục suốt: Không quân thần phụ tử đếch nên người. Mặt khác, sau những hành động phò vua giúp nước như vậy, ông lại chủ trương cho phép có một cuộc sống riêng buông thả không bị câu nệ vào những tập tục đã thành quy ước.

Tuy không tuyên bố rõ rệt, nhưng như vậy, có vẻ Nguyễn Công Trứ đã đi rất gần với một quan niệm về sự phân thân, trong con người có thể có hai ba con người khác nhau. Và đó là một quan niệm khá mới mẻ so với hoàn cảnh đương thời. Theo một tài liệu tâm lý học chúng tôi đọc được, thì nhìn chung trong lịch sử nhân loại, phải đến những thời đại gần đây, sự phân thân này mới ngày một phổ biến (cũng giống như trong việc xây dựng chỗ ở, lúc đầu, mỗi gia đình chỉ có một phòng, mãi về sau, người ta mới biết xây dựng căn hộ thành nhiều phòng, mỗi người một phòng riêng cho tiện sinh hoạt).

Một điều người ta cũng hay nói tới khi quan sát hành trình làm người của Nguyễn Công Trứ là ông có sự lên voi xuống chó liên tục, để rồi sung sướng nhận ra rằng ở hoàn cảnh nào ông cũng tìm được sự thoải mái. Có thể giải thích điều này bằng khả năng thích ứng cao độ cũng như cái trẻ trung vĩnh viễn trong tâm hồn ông. Song với những người có nghiên cứu tâm lý học hiện đại thì cách ứng xử này không khỏi gợi nhớ tới lý thuyết con người đóng vai. Theo thuyết này, trong cuộc đời, mỗi người như có một vai riêng, người ta không thể đòi hỏi những ai khác, mà chỉ cần vào vai nào cho ra vai ấy. Tóm lại phải tạo được mối quan hệ tự nhiên với hoàn cảnh, tuỳ theo hoàn cảnh mà sống, song vẫn phải giữ được bản sắc.

Rộng hơn câu chuyện đóng vai từng nơi từng lúc, hình như Nguyễn Công Trứ còn ngầm tuyên bố một quan niệm rằng cả cuộc đời này cũng là một sự đóng vai. Trong số các nhà thơ Việt Nam cổ điển, ông là một người ít bị khuôn sáo ám ảnh. Con người ông rất ít mặc cảm. Ông không bị cách hiểu cũ kỹ về công danh, chức phận chi phối. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, ông sống một cách tự nhiên, đến mức, không hề vun vén cho cuộc sống sau khi chết. Người ta kể rằng khi qua đời, ông muốn mọi người đốt ngay mái nhà ông đang ở và chôn ông dưới đống tro đó. Nếu thật đúng như thế thì có thể nói, ông đi rất gần với một quan niệm hiện sinh, chỉ thấy cuộc đời này là quan trọng, ngoài ra, từ chối mọi nghi thức ràng buộc, dù chúng đã hết sức phổ biến. Chúng tôi còn thoáng có ý nghĩ rằng ở con người hành động của Nguyễn Công Trứ có một chút hư vô nữa. Với tinh thần hư vô lành mạnh, ông đã sống và hành động sôi nổi để rồi sẽ chết trong thanh thản.

Qua những đặc điểm của con người Nguyễn Công Trứ như trên vừa nêu, có thể tổng kết lại là Nguyễn Công Trứ rất mới mẻ, rất “tây”, rất gần với con người hiện đại. Chúng ta nhìn vào ông như nhìn vào chính mình, bắt gặp ở ông những phương diện của con người mà cuộc sống hiện thời bắt buộc mình phải chấp nhận. Chẳng hạn như về sự phân thân. Đây đó, theo một quan niệm có phần cổ, chúng ta thường không có cảm tình với sự phân thân này và cứ cảm thấy có phần xấu hổ khi bắt gặp trong mình và những người quanh mình sự thiếu nhất trí. Về phương diện này mà xét, thì thơ văn Nguyễn Công Trứ là một tấm gương soi để chúng ta vừa hiểu thêm mình và rộng lượng hơn với mình: sự phân thân là hướng phát triển bắt buộc mà mọi con người hiện đại phải có, và không việc gì ta phải ngượng với điều đó cả.

 

 

7. Công việc của Phan Bội Châu lúc về già

 

Bằng vào những tài liệu ghi trong các tập lịch sử văn học cũng như trong các sách giáo khoa dạy văn dạy sử từ phổ thông đến đại học, lâu nay Phan Bội Châu (1867-1940) đã được biết tới như một trong những nhà văn lớn nhất nửa đầu thế kỷ XX. Nhưng nhìn cho kỹ thì thấy trước đây, Phan Bội Châu được nhắc nhở chủ yếu như một ngòi bút có mãnh lực đặc biệt trong việc khơi gọi lòng yêu nước và thúc giục đồng bào ta đấu tranh. Những gì ông viết ra trước khi bị bắt (1925) được hết sức trân trọng, còn những sáng tác của ông khi đã bị giam lỏng ở Huế chỉ được kể tới một cách chểnh mảng. Điều có vẻ ngẫu nhiên đó thực ra nằm trong quan niệm về văn học một thời: Môt là đánh giá văn thơ qua tác động trực tiếp của nó với người đương thời và hai là gắn văn chương với thành công trước mắt mà quên rằng nhiều khi ngay trong thất bại, vẫn có thể nảy sinh những tác phẩm có giá trị thực thụ.

Trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày mất của Phan Bội Châu (29-10-1940 – 29-10-1990), nhà nghiên cứu Chương Thâu, được sự ủng hộ của Nhà xuất bản Thuận Hoá cho in liền một lúc mười tập Phan Bội Châu toàn tập. Đồng thời với việc gợi ra ý niệm về khối lượng sáng tác đồ sộ của Phan Bội Châu, bộ sách còn làm được một việc lớn lao là đính chính lại hình ảnh Phan Bội Châu trong chúng ta nữa.

Ngay cách bố cục của bộ sách đã nói lên điều đó. Ba tập đầu được dành cho sáng tác của Phan Bội Châu từ 1925 về trước. Còn những gì ông viết 15 năm cuối đời được dành hẳn cả bảy tập cuối. Vả chăng, vấn đề không phải chỉ là số lượng. Vấn đề còn là trong bảy tập cuối này, có chứa hai công trình nghiên cứu lớn của Phan Bội Châu. Một về Chu dịch. Một về đạo Khổng.  Trước khi hoạt động cách mạng, Phan tiên sinh đã có một căn cốt tri thức vững vàng. Nhờ thế, lúc đã về già, trong cảnh cá chậu chim lồng, ông vẫn tìm được việc để làm và sự thực là đã có những công trình hữu ích! Trước mắt chúng ta Phan Bội Châu hiện lên không chỉ như một ngòi bút có sức cổ động mạnh mẽ, mà còn là một nhà nghiên cứu sâu sắc đủ sức viết nên những tác phẩm đánh dấu trình độ tri thức một thời.

Ngoài việc giới thiệu Chu dịch quốc âm dẫn giảiKhổng học đăng, Phan Bội Châu toàn tập còn dành cả một tập để giới thiệu văn xuôi tự truyện của tác giả và đây cũng cần coi là một đóng góp nữa của bộ sách. Bởi lẽ, như chúng ta biết phần sáng tác này của Phan Bội Châu cũng thường bị lãng quên một cách oan uổng.

Trên danh nghĩa ai cũng bảo Phan Bội Châu niên biểu là tác phẩm quan trọng bậc nhất của Phan tiên sinh. Nhưng không kể lần trích in một phần ở Huế 1946, thì đến nay cuốn hồi ký đó của ông chỉ được in thành sách riêng hai lần, một lần vào năm 1955, một lần vào 1957 rồi không thấy được in lại nữa, kể cả trong một số bộ tuyển. Vậy nên, riêng việc tiếp xúc với một tác phẩm nay đã trở thành ấn bản hiếm ấy cũng đã hứa hẹn nhiều thú vị với những ai sẽ đọc Phan Bội Châu toàn tập. Và người ta lại sẽ hào hứng hơn nếu biết rằng cuốn Niên biểu ấy là một thứ hồi ký mẫu mực. ở đó tác giả không định kể công, không tự tô vẽ, không muốn biến mình thành thánh, ở dó, ông chỉ mong người sau trông vào vết xe đổ của mình để tránh thất bại. Xưa nay cái yếu tố tự phán ấy (như một tựa đề vẫn được truyền tụng để gọi Phan Bội Châu niên biểu) thường vẫn là tinh thần chính toát ra từ các cuốn hồi ký tài ba của các nhà văn, đồng thời là những trí thức chân chính.

 

 

8. Một lần bừng tỉnh…

(Thử tìm hiểu lại một sự kiện lịch sử: Đông Kinh nghĩa thục)

Tháng 5-1907, nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương ký giấy phép chính thức cho khai sinh một trường tư thục ở Hà Nội đã bắt đầu mở cửa từ một vài tháng trước. Nhưng chỉ ít lâu sau, tháng 12 cùng năm, họ phải lập tức thu hồi giấy phép đó lại. Vậy mà đã muộn… Tuy chỉ tồn tại trong vòng chưa đầy một năm, phong trào Đông Kinh nghĩa thục vẫn vĩnh viễn đi vào lịch sử.

 

Có dịp đi lại trên phố Hàng Đào buôn bán tấp nập – dãy  phố đầu bảng trong danh sách 36 phố phường cũ của Hà Nội – có lẽ ít ai nhớ rằng nơi đây đã có lúc trở thành trung tâm của một cuộc vận động lớn nhằm canh tân đất nước.

ấy là chuyện xảy ra vào năm thứ bảy thế kỷ XX.

Mở trường giảng dạy. Ra báo. Diễn thuyết. Thảo luận. Bình văn… Trong khuôn khổ một trường tư thục mô phỏng theo Khánh ứng nghĩa thục bên Nhật, những việc cụ thể mà các nhà nho lúc ấy, dưới sự hướng dẫn của các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Hoàng Tăng Bí… đã làm, kể cũng đã nhiều. Song, so với cái ồ ạt của hoạt động, thì nhận thức mới mà phong trào này mang lại còn quan trọng hơn gấp nhiều lần.

 

Tự phê phán và chân thành muốn hoà nhập

Nói một cách thật cô gọn, thì lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX, không gì khác, là lịch sử mất nước, đồng thời là lịch sử suy nghĩ để hiểu rõ nguyên nhân chính tại sao lại dẫn đến mất nước, từ đó tìm ra đối sách đúng đắn. Thoạt đầu, các nhà nho – bộ phận nhạy cảm nhất của dân tộc – chỉ mới dừng lại ở mệnh trời, ở ý chí, ở cách tổ chức lực lượng. Và họ đã nêu những tâm gương kiên trung trong cuộc đối đầu không chịu khuất phục trước quân xâm lược. Nhưng rồi bấy nhiêu cố gắng đều chỉ dẫn đến bế tắc, tuyệt vọng. Bước sang đầu thế kỷ này, trong khi ngày một thấm thía nỗi hờn vong quốc, những đầu óc tiên tiến nhất thời ấy bắt đầu nghĩ về thực trạng đất nước trên một bình diện khác: bình diện văn hoá. Nói như một nhà trí thức có hạng sau này sẽ nói: “Cái nông nỗi mất nước của ta chính là một tấn kịch nhỏ trong tấn kịch Đông Tây xung đột nhau. Phương Tây đem lại cái chủ nghĩa đế quốc, cái dục vọng bá quyền, những tư tưởng phá hoại, những cơ khí tối tân mà tràn ngập sang phương Đông trong khoảng một thế kỷ nay làm cho các dân tộc phương Đông thất điên bát đảo, bảy nổi ba chìm, đến nay hãy còn tê mê chưa tỉnh sự đời. Thành ra, cái nông nỗi ấy, đối với ta, không phải chỉ là một vấn đề chính trị mà thôi, lại kèm thêm một vấn đề văn hoá nữa, khó khăn nguy hiểm vô cùng”.

Trong những nhận xét khái quát đó, cũng như trong một bài nghị luận dài mang tên Văn minh tân học sách, văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng, do đó nó yêu cầu có một cách đối xử khác. Có một thời nó bị gắn chặt với các thế lực xâm lược, và tinh thần yêu nước nhất thiết chỉ có một cách để bộc lộ là bài ngoại (ở đây là những người từ phương Tây tới), chống lại mọi biểu hiện dây dưa với ngoại bang, thực chất là chống lại văn hoá. Giờ đây, nhờ sự nghiền ngẫm hợp lý, văn hoá phần nào có được sự độc lập tương đối của một thứ công cụ; nếu kẻ xâm lược đã dùng văn hoá để thắng ta, thì ta cũng có thể dùng nó để chống lại chúng. Chủ nghĩa yêu nước hoàn toàn có thể tìm thấy ở đấy một trợ thủ hiệu nghiệm.

Từ một cách nhìn như thế về lịch sử – xem lịch sử xã hội đồng thời là lịch sử văn hoá – người ta bắt tay làm một cuộc kiểm điểm khá mạnh dạn. Trong những tài liệu mà Đông Kinh nghĩa thục in và phát cho các học viên, trong các bài báo lớn nhỏ được đăng trên một tờ báo mới được khai trương cùng với phong trào, tinh thần tự phê phán được đẩy  lên ở quy mô dân tộc và xem như bước khởi đầu cần thiết cho mọi vận động có liên quan đến sự sống còn của đất nước. Một thời gian dài, yêu nước chỉ có cái nghĩa duy nhất là lập căn cứ khởi nghĩa và khi khởi nghĩa thất bại thì khẳng khái lui về ở ẩn, nhất định không chịu hợp tác với giặc. Giờ đây, cách hiểu có khác, yêu nước nồng nàn là phải hiểu cho ra cái lạc hậu cổ hủ của nước mình, sự chậm chân, nhất là sự tách rời của nước mình so với thế giới, để rồi lo bảo nhau tìm cách xoá bỏ mọi khoảng cách đáng ngán đang có. Vượt lên trên mặc cảm tự tôn giả tạo, đúng hơn là một thứ tự vuốt ve ru ngủ có hại, người ta có thể nói với nhau khá nặng lời mà không sợ ai hoang mang và mất niềm tin cả. Cứ mỗi lần kể đến sự canh cải đổi thay ở nước ngoài là một lần Văn minh tân học sách nhắc lại: Còn ta thì vẫn như cũ! Trong số ra ngày 27-6-1907, Đăng cổ tùng báo còn viết rõ hơn: “Nước Nam ta bây giờ dốt tệ lắm, mà cũng vì cái dốt nên phải làm như trâu như bò, được đồng nào đem sắm đồ Tàu hết. Cũng vì cái dốt nên nghề hay không làm, ai cũng muốn làm cái nghề ăn không. Cũng vì cái dốt nên người đói meo ra không lo, lo Quan Âm đói. Nói tóm lại thì bao nhiêu cái khổ sở nhọc nhằn ở nước ta cũng vì cái dốt mà ra cả”.

Cái chuẩn được dùng để xem xét thực trạng xã hội,  trong trường hợp này, không phải là thứ chuẩn riêng do ta nghĩ ra, mà là cái chuẩn chung của cả thế giới. Thói mị dân xoàng xĩnh bị coi như là có hại. Những đặc điểm dân tộc không bị cường điệu quá mức. Đằng sau những kế sách mà Văn minh tân học sách đề ra nhằm mở mang dân trí có cả một nhận thức sâu sắc dùng làm cơ sở: Đó là nhận thức cho rằng con đường duy nhất để cứu nước là canh tân đất nước. Và trong công cuộc cường dân hoá quốc gian khổ đó; chỉ có thể chân thành cởi mở chứ không thể ấp úng che giấu, chỉ có thể thật sự cầu thị, xắn tay lên mà học mà làm, chứ không có lối nào đi tắt. Trong thời đại mà các cụ gọi là “mưa Âu gió Mỹ” này, mọi thói láu cá khôn vặt không có đất sống.

 

Trí thức không còn có nghĩa là bảo thủ

Đặt trong quá trình vận động đi lên của dân tộc trong suốt thế kỷ XX, công việc mà Đông Kinh nghĩa thục làm được nhất là những nhận thức mà phong trào đó gợi ra, mang tính cách một thứ đột phá khẩu. Sau sự mở đường ấy, những đầu óc tiên tiến trong giới trí thức, dưới nhiều hình thức khác nhau, sẽ còn đi tiếp, và đi xa hơn, trong việc tự phê phán cũng như đẩy mạnh hoà nhập với thế giới. Từ mấy câu thơ Tản Đà sẽ viết (Dân hai nhăm triệu ai người lớn Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con), tới một cuộc vận động mang sắc thái bùng nổ, và đáng được coi là sự kiện thế kỷ như phong trào Thơ mới, người ta đều có thể “đọc ra” những dư vang tư tưởng được khởi xướng từ Đông Kinh nghĩa thục. Tâm thức dân tộc như ở vào một cuộc bừng tỉnh và sự bừng tỉnh ấy, rõ ràng là bước chuẩn bị cho những vận hội mới.

Một điều kỳ lạ người ta cũng không nên quên khi nhìn lại phong trào Đông Kinh nghĩa thục, ấy là vai trò mà các nhà nho, những trí thức dân tộc lúc bấy giờ đã đảm nhận. Vốn là tầng lớp ăn sâu bén rễ tới mỗi làng xóm và có tiếng nói khá quyết định ở triều đình, trước đây họ nổi tiếng là bảo thủ. Họ từng thấy rất ngại ngùng không muốn mở cửa đất nước trước văn hoá phương Tây, chỉ bởi một lẽ giản dị: mở cửa nghĩa là quyền lợi của họ bị mất, họ không có dịp thi cử như cũ để rồi vênh vang mũ cao áo dài, tận hưởng ân vua lộc nước như cũ. Với Đông Kinh nghĩa thục, họ đã trở lại với vai trò mà bấy lâu xã hội trông đợi, vai trò khai phá mở đường, gợi ý để dân tộc cùng đi tới. Trí thức đồng nghĩa với cách mạng, văn thơ do họ sáng tác xứng đáng để được gọi là văn thơ cách mạng. Và như vậy thì cái năm 1907 ấy thật sự là một phen để họ rửa mặt, gỡ đi cái tiếng tầm thường vốn có.

 

 

 

 

9. Tú Xương, Nhà báo?

Gia Định báo, tờ báo đầu tiên của nước ta được xuất bản ở Sài Gòn 5 năm trước khi Tú Xương ra đời. Nhưng có lẽ trong hoàn cảnh sự giao thông liên lạc bấy giờ, thậm chí khó lòng nói chắc rằng nho sĩ Trần Tế Xương biết có một tờ báo như thế tồn tại ở trên đời để tính chuyện… cộng tác.

Tương tự như vậy, cũng không ai dám đảm bảo Đại Nam đồng văn nhật  báo, sau đổi là Đăng cổ tùng báo (do Schneider cho làm ở Hà Nội, có phần chữ Hán do Kiều Oánh Mậu phụ trách) có dịp đến với đông đảo cư dân thành Nam, để nhà thơ của xứ Non Côi Sông Vị này có được cách nghĩ rộng ra về sự tồn tại của một ngòi bút như mình và có thêm những chủ định trong sáng tạo. Theo các tài liệu viết về lịch sử báo chí nước ngoài thì ngay từ đời Đường, Trung Quốc có tờ Đế báo. Từ 1355, một ấn phẩm được các nhà nghiên cứu sau này tạm mệnh danh là Gazette de Pékin đã được nhà Nguyên cho phát hành và từ 1800, triều Thanh có báo ra hàng ngày, in vào những mảnh lụa vàng, khâu liền với nhau v.v… Có điều, đấy là chuyện ở bên Tàu. Ông cha ta có qua đó học nghề in mộc bản, thì cũng chỉ mới là để in sách cho mấy nhà Quảng Văn Đường, Liễu Văn Đường…, tóm lại là học làm xuất bản, chưa ai có ý niệm gì về báo cả. Nếu có tính đến mấy ông nhà nho chuyển sang viết báo, thì người ta phải đợi đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX, khi Phan Kế Bính viết cho Đông Dương tạp chí, Nguyễn Bá Học viết Nam Phong, Tản Đà làm Hữu Thanh hoặc Phan Khôi làm chủ bút Phụ nữ tân văn. Trước đó, nhà báo ở ta thuần tuý là lớp trí thức mới được Pháp đào tạo (Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh). ấy là những sự kiện được lịch sử công nhận.

Tuy nhiên, nếu căn cứ vào nội dung các bài thơ mà Tú Xương để lại, người ta lại không khỏi có ý nghĩ rằng ông nhà nho này sinh ra để làm báo. ở ông luôn luôn có tư duy của một ký giả, chẳng qua sinh bất phùng thời, không gặp cơ may để thi thố ngòi bút cho đúng lúc thôi, chứ thật ra ông phải là người của trường văn trận bút hiện đại thì mới phải.

Chất báo chí trong thơ Tú Xương được bộc lộ ở mấy điểm:

1) Trong khi phần lớn thơ ca nho sĩ là thơ ca hướng nội, thì thơ Tú Xương “hướng ngoại”. Đối với ông, những chuyện đời Đường, đời Tống ông phải học từ khi để chỏm chả có gì quan trọng. Mà ông luôn luôn dỏng tai để lắng nghe các chuyện thời cuộc và tìm cách ghi lại nó trên mặt giấy. Chưa nói được về tình hình chung của cả xứ cả nước, thì ông nói về chuyện cái thành phố ông ở. Giá một tờ báo lớn nào đó ở Hà Nội, ở Sài Gòn muốn tìm cộng tác viên tại chỗ, chắc phải mời ông, vì ông thạo tin vỉa hè, biết đủ chuyện đầu đường xó chợ người ta đang đồn đại, và sẵn sàng làm những việc mà một phóng viên tập sự phải làm tức là săn tin ở sở cảnh sát, ở toà án. Nhìn vào các loại việc mà thứ thơ “ống kính chụp nhanh” của ông đã có nhắc tới, nào ăn cắp vào nhà pha, nào sư ở tù, mán ngồi xe, nào cảnh mẹ vợ ngủ với chàng rể, cô ký lấy lẽ v.v…, người ta dễ nghĩ tới một mục Việt Nam nhị thập thế kỷ ba đào ký mà tờ An Nam tạp chí của Tản Đà sẽ mở.

2) Cũng rất gần với báo chí là cái tư duy bám sát hiện tượng và sự vật của thơ Tú Xương. Ông thích mô tả, mà không thích tổng hợp vội, khai quát non. Nhân vật ông nói tới phải có cái tên cụ thể (ông ấm Điềm, ông cử Nhu, ông đồ Bốn…), địa điểm xảy ra hành động cũng là những phố những làng có thật (Hàng Lờ, Hàng Nâu, Hàng Sắt v.v…) Đặc biệt, với Tú Xương bắt đầu cả loạt thơ chân dung viết về đủ loại: ông đốc, ông phủ, ông đội, ông lang, ông cò, cô đầu, gái buôn, bợm già, công chức thuộc địa v.v… Những con người có thật đó vào thơ ông sống động linh hoạt như ở ngoài đời mà vẫn gợi ra những ý khái quát mà các bài báo sắc sảo phải có.

3) Nhiều sáng tác của Tú Xương hình như được viết rất nhanh. Sự việc vừa xảy ra là ông có thơ liền. Lại có những bài ông làm theo “com-măng”, theo đơn đặt hàng của người khác, mà vẫn chân thành, sâu sắc và gửi gắm được tâm sự riêng của mình. Cái lối làm việc có vẻ như không cần cảm hứng này rất gần với báo chí hiện đại.

4) Sau hết, nếu đi làm báo, Tú Xương sẽ là một nhà báo viết được nhiều thể tài khác nhau. Trong khi bị gò bó ở thể thơ thất ngôn, ông vẫn tỏ ra là một ngòi bút phóng túng, có thể bươn trải xoay xoả đủ mặt hàng, từ phóng sự, đặc tả cho tới tạp ghi, phiếm luận, nhàn đàm… và cả dịch thuật nữa.

Từ trước đến nay, thơ văn của Trần Tế Xương thường được các nhà nghiên cứu ở ta xếp vào dòng thơ cổ điển, thứ thơ từ thế kỷ XIX về trước. Đã đến lúc, nên nói thêm rằng sáng tác của Tú Xương có những khía cạnh khá hiện đại, mà trước tiên con người tác giả hiện ra trong thơ đã là con người khá hiện đại. Được đào tạo chính quy từ nơi cửa Khổng sân Trình song ông xa lạ với mọi quan niệm sống khắc kỷ khổ hạnh mà các nhà nho tự ép xác để noi theo bằng được. Ông thích công khai nói lên những khao khát thường xuyên lồng lộn vật vã trong lòng mình. Cay nghiệt trong nhận xét, xô bồ thoải mái trong lựa chọn tài liệu, không ngại trâng tráo trong trình bày miêu tả, ông đã mang tới trong thơ ca một tiếng nói mới, tiếng nói của những thành thị đang hình thành.

Chất báo chí nói trong bài này bắt nguồn từ cái phần sâu xa đó trong con người Tú Xương.

 

 

10. Hơi ấm từ những người chết

 

ở bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười, anh bộ đội chồng của cô Duyên qua đời từ lâu song vẫn đi về trong trí nhớ người vợ, trò chuyện với cô như người có thật.

Xa hơn nữa, ở truyện nôm Phạm Công Cúc Hoa, hồn ma nàng Cúc Hoa hiện lên bắt chấy cho các con, âu yếm con không nỡ rời.

Người chết luẩn quẩn bên người sống, tham gia vào mọi việc trong đời sống – điều ấy được văn chương nghệ thuật diễn tả từ lâu.

Nhưng nó cũng là chuyện thường xuyên xảy ra, trong cái thế giới nho nhỏ mang tên là “Thế giới văn học”.

Giữa năm 1991, một cuốn sách chuyên đề ra ở Sài Gòn nhân chuyện tiền chiến có nhắc đến tiểu thuyết Trong rừng nhỏ của Ngô Tất Tố. Lập tức có bạn đọc viết thư đến hỏi liệu có một cuốn tiểu thuyết mang tên như thế không, hay nhầm rồi, Ngô Tất Tố chỉ là tác giả của những Tắt đèn, Lều chõng, Việc làng, chứ có viết quyển nào mang trên Trong rừng nhỏ đâu? Dĩ nhiên đánh tan sự nghi ngờ đó không phải là việc khó, chỉ cần trình ra cuốn sách do nhà xuất bản Đà Nẵng cho in là đủ. Song, cứ phải kể lại chuyện đó để thấy một điều: thực ra kho tàng văn học tiền chiến phong phú hơn chúng ta vẫn tưởng. Cách khai thác của chúng ta trước đây có phần nghiêm túc, nhưng cũng có phần tuỳ tiện, sai lệch, bắt nhầm mạch người ta, lên bản đồ sót về người ta, rồi cứ đinh ninh rằng mình đã hiểu cặn kẽ chính xác mọi chuyện. Nay ngồi tính lại, ra không phải vậy. Chỉ tồn tại trong vòng từ bảy đến mười năm gì đấy, song sự nghiệp của mỗi tác giả xuất sắc như Khái Hưng, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Bính… có cái vẻ đồ sộ và sự vững bền riêng của nó. Lịch sử văn học lúc ấy đã tiến những bước chóng mặt!

Đến như sức sống kỳ lạ của nhiều cây bút tiền chiến, thì vào những ngày này, nhiều người mới có dịp chứng kiến, để rồi hiểu rằng thế nào là sự đền bù của dư luận cho những ngòi bút được coi là đồng nghĩa với văn học.

Hãy nói một chuyện: bên cạnh việc in lại những Số dỏ, Chùa đàn, Trên đường sự nghiệp, Cái thủ lợn, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Bướm trắng v.v… có một sự kiện văn học thú vị: nay là lúc các thứ hồi ức giai thoại… về các nhà văn nhà thơ tiền chiến tha hổ nảy nở và trở thành chuyên mục hấp dẫn của nhiều phương tiện thông tin đại chúng. ở nhà xuất bản này, mối tình Thâm Tâm và T.T.Kh. một lần nữa được “hâm nóng”. ở tờ báo kia, tấm ảnh Nguyễn Đình Lạp ngày cưới, bên cạnh những Nguyễn Tuân, Nguyễn Đỗ Cung cùng mặc áo dài… được đặt vào vị trí thật trang trọng. Không phải Hàn Mặc Tử chỉ được nhắc nhở tới trong các cuộc hội thảo khoa học: gần đây, cả mấy cuốn sách viết về Hàn Mặc Tử và chọn thơ Hàn Mặc Tử cùng lúc in ra, kéo theo nhiều bài báo tranh luận dữ dội với nhau, khó phân thắng bại. Nếu một thời gian dài khoảng trên bốn chục năm, nhà văn Lan Khai bị lờ hẳn đi, không ai nhắc nhở tới, thì tự nhiên một hai năm qua, sự quan tâm tới ông vụt trở nên rầm rộ, mọi kỷ niệm về nhà văn đường rừng đó được khai thác bằng hết, nào chuyện ngày xưa, các cây bút Tân Dân quan hệ với Lan Khai ra sao, nào số phận những người thân trong gia đình ông nay như thế nào. Rồi những mối tình của Nguyễn Bính; câu chuyện chung quanh bữa tiệc Tự lực Văn đoàn tiễn Xuân Diệu đi nhậm chức nhà đoan; việc Nguyễn Tuân thường xuyên tới ám các bà chủ cô đầu – chuyện gì mà người ta không kháo nhau bây giờ! Khi đăng tải các tài liệu đó, báo chí không có dụng ý gì khác hơn là “bán hàng thì phải chiều khách”, và chỉ coi đây là thứ quà vặt, không hẳn lạ miệng, song còn ăn mãi được. Trong văn học không thiếu gì những trường hợp một số người chết được lôi ra để giết đi lần nữa. Song ở đây thì có khác. Bạn đọc đón nhận mọi mẩu chuyện và đủ thứ giai thoại về các nhà văn tiền chiến với tất cả cái hăm hở thú vị (“Ra mọi chuyện trong văn giới loanh quanh, rắc rối như vậy!”) lẫn cái độ lượng thông cảm (“ấy, nhà văn thứ thiệt thì phải như vậy!”. Cứ thế, người chết đi về, mau mắn linh động, giao đãi với người sống, tạo ra những mối quan hệ khăng khít với những người sống, mà ngay các nhà văn đang sống cũng chỉ biết… nhìn và ao ước.

Rút cục thì trước mắt chúng ta là một cảnh tượng kỳ lạ. Không phải giữa sống với chết, có một sự đối lập tuyệt đối, sự sống là một thứ dương vô cực, còn cái chết là âm vô cực, như Xuân Diệu từng nói. Ngược lại, cái sống cái chết xuyên thấm vào nhau. Lúc nào cái chết cũng hiện diện: là đang chết dần một phần những bỏ bút không viết, những ai tự lặp lại mình, những ai chỉ ngồi nhớ những vinh quang hôm qua, còn sách thì đang phủ bụi trong các thư viện, và chỗ xuất hiện thường xuyên là các cuốn sách giáo khoa, học sinh không thích cũng cứ phải ra rả học cho thuộc. Trong khi ấy, một số người chết lại như từ mồ bước ra ngay giữa thanh thiên bạch nhật, sống thêm một cuộc đời nữa, cất lên tiếng nói của mình, luôn được người ta tìm đến như một niềm an ủi, một nơi nương tựa. Trong cái thế giới mang đậm chất Bồ Tùng Linh – ma ở lẫn với người, người trò chuyện với ma – như thế này, không hề có một thứ âm khí lạnh lẽo nào, mà chỉ có hơi ấm, chỉ có cái hay cái đẹp vĩnh viễn ngự trị.

 

 

11. Món nợ tiền chiến

 

Những người theo dõi báo chí Sài Gòn trước 1975 hẳn còn nhớ mấy chục năm trước nhóm Sáng Tạo (với Mai Thảo, Duy Thanh, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền…) đã từng có một cuộc thảo luận mang tên Nhìn lại Văn nghệ tiền chiến ở Việt Nam. Đại khái ý định của họ là muốn phủ nhận, muốn chê bai, muốn biến những Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Trần Huyền Trân trở thành những số không… to tướng.

Nghệ thuật tiền chiến là một thứ nghệ thuật của những rung cảm hời hợt giả tạo.

– Cái không khí thời đại mà người ta sống bấy giờ thực sự là ngớ ngẩn.

– Có những người coi nghệ thuật tiền chiến là một thứ mẫu mực hiện đại mà trớ trêu thay, đó là thứ nghệ thuật chỉ cần một biến động lịch sử cách đây vài chục năm đã như lùi xa hàng bao thế kỷ.

ảnh hưởng nghệ thuật tiền chiến trên thực tế, đã phai tàn. Không khí của đời sống hiện tại, của ý thức nghệ thuật hôm nay đã đốt cháy tất cả những gì thuộc về nghệ thuật ấy.

“Muốn quên ai đi, tức là đang nhớ tới người đó”. Nghịch lý tình cảm đó, không chỉ đúng trong lĩnh vực yêu đương mà đúng cả trong văn hoá. Đằng sau những câu nói “nói lấy được” của mấy cây bút trong nhóm Sáng Tạo, người ta dễ đoán nhận ra một sự thực khác: họ hiểu tiền chiến là một giá trị, và họ thấy cần phải vượt qua cái giá trị đó.

Muốn vỗ nợ, chính là một cách công nhận rằng có nợ, mà nợ khá lớn, nợ không trả nổi nữa.

Có một cách khác để ghi nhận món nợ, là nói về nó thật rõ ràng, thật sòng phẳng. Ngay ở Sài Gòn trước 1975, cũng đã nhiều người có thái độ như vậy, với văn học tiền chiến. Chẳng hạn như thái độ của Vũ Hạnh.

Trong một bài viết đăng trên Bách khoa số 180, ra ngày 1-7-1964 vừa được in lại trong cuốn Tự lực Văn đoàn, con người và văn chương (Hà Nội – 1990), Vũ Hạnh đã nói về những biến chuyển của tình cảm nơi ông đối với Nhất Linh. Khi sùng bái, khi nghi ngờ, nhưng rút cục, cả trong hành động có vẻ như vô thức, ông vẫn cảm thấy ảnh hưởng của một nhân vật như Dũng nói riêng, ảnh hưởng của Nhất Linh nói chung đối với mình là to lớn. “Tôi chịu ơn anh”, đấy là lời thú nhận của Vũ Hạnh đối với Nhất Linh, nó cũng là bằng chứng về món nợ tiền chiến, mà người ta đoán rằng Vũ Hạnh không bao giờ phủ nhận.

Cuốn sách Tự lực Văn đoàn, con người và văn chương chỉ bao gồm một ít tài liệu liên quan đến mấy anh em nhà Nguyễn Tường và Khái Hưng. Còn lâu mới có thể nói là nó bao quát hết các tài liệu về Tự lực Văn đoàn nói chung. Vậy mà bấy nhiêu trang viết của Hồ Hữu Tường, Thế Uyên, Đinh Hùng, Dương Nghiễm Mậu v.v… in ở đây đã lên tới gần 200 trang. Nếu tính tổng số chữ nghĩa mà những báo, tạp chí như Văn, Văn nghệ, Bách khoa, Vấn đề, Khởi hành… ở Sài Gòn trước 1975 đã dành để bàn tới văn học tiền chiến, nếu tính tổng số bản in, tổng số trang sách của các nhà văn, nhà thơ tiền chiến do các nhà xuất bản ở Sài Gòn (trong đó phải kể đến một nhà như Hoa tiên, chuyên về sách trước 1945) đã in ra, phải nhận món nợ tiền chiến từng được xem là lớn đến như thế nào và đã bao người đã gắng gỏi một cách tuyệt vọng để thanh toán món nợ đó như thế nào! Trong cuốn sách Văn thi sĩ tiền chiến, sau khi bảo rằng giai đoạn từ 1925 đến 1940 là “thời đại hoàng kim của văn học sử Việt Nam”, nhà thơ Nguyễn Vỹ không ngại nói rõ thêm:  “Nó – cái thời vàng son ấy – chói lọi trong huyền mơ của một dĩ vãng luôn luôn còn hiện tại. Không có người chết. Chỉ có người vắng mặt”.

 

*

*  *

 

Từ 1986 trở về trước, việc in ấn lại văn học 1930-1945 ở Hà Nội chỉ bó tròn trong một vài tuyển tập, trước hết là Ngô Tất Tố, Nam Cao, sau có mở rộng ra đến Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng v.v… rồi các tiểu thuyết Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp, và một vài tập truyện ngắn khác. Với các nhà nghiên cứu lúc ấy, món nợ tiền chiến hình như chả có là bao.

Từ 1987 trở về đây, đột nhiên việc in lại tác phẩm tiền chiến bừng lên như một đợt sóng mạnh mẽ trên phạm vi cả nước. Thơ Hàn Mặc Tử, thơ Bích Khê lần đầu tiên được xuất bản lại thành những tập thơ riêng. Thơ Nguyễn Bính khỏi phải nói “mà treo giải nhất chi nhường cho ai”, trở thành phổ biến chẳng khác gì những Phạm Công Cúc Hoa, Lục Vân Tiên… vẫn được bày bán khắp chợ cùng quê từ xưa đến nay. Đôi khi, người ta thấy một cuốn tiểu thuyết của Khái Hưng, của Nhất Linh hoặc một tập truyện ngắn của Hồ Dzếnh được mấy nhà xuất bản cho ra mắt bạn đọc cùng một lúc. Trong rừng nho của Ngô Tất Tố, hoặc Trên đường sự nghiệp, Cái thủ lợn của Nguyễn Công Hoan, Nhà nho của Chu Thiên… nhưng cuốn sách vì lý do này hay lý do khác tuởng sẽ không ai ngó ngàng tới, nay cũng đã được tái bản. Sau hết, những công trình nghiên cứu như Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Trông dòng sông Vị của Trần Thanh Mại cũng tìm thấy “giấy thông hành” đến với các tủ sách để góp phần làm cho văn học tiền chiến phong phú hơn về thể loại và hoàn chỉnh hơn trong sự phát triển.

Với việc “trở lại với đời” của hàng loạt tác phẩm, văn học tiền chiến đang trình ra trước mắt bạn đọc toàn cảnh chưa bao giờ đầy đặn đến vậy.

Trên phuơng diện xuất bản, món nợ coi như là đã được xác nhận đàng hoàng. Người ta chỉ còn chờ đợi những đánh giá có tính chất tổng kết của các nhà văn học sử, cũng như những thú nhận của những người làm nghề cầm bút như trên đây vừa trích dẫn. Có thể là những công nhận như Nguyễn Vỹ, Vũ Hạnh. Có thể là những phủ nhận như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền. Nhưng có hề gì? Có muôn ngàn cách khác nhau để nói về một món nợ, nữa đây lại không phải nợ thường mà là nợ nần về mặt tinh thần tình cảm, nợ nần trong lĩnh vực văn hoá.

 

 

12. Trong một ngày hội

 

 

Một mùa màng bội thu… Một thời đại hoàng kim… Cái thời vàng son chói lọi trong huyền mơ của một dĩ vãng còn luôn luôn hiện tại… Mỗi khi muốn hình dung lại sinh hoạt văn học trước 1945, người ta đã viện dẫn tới đủ thứ so sánh như vậy. Song theo chúng tôi hiểu, xét ở vẻ đa tạp của màu sắc, độ mau lẹ ẩn hiện trong biến hoá, cùng là khả năng thức dậy những hồ hởi náo nức và để lại những ấn tượng mạnh, đậm trong tâm trí người tới tham dự, văn học tiền chiến còn có thể ví như một cảnh diễn tưng bừng, một lễ hội.

Phần lễ: Khía cạnh cầu khẩn linh thiêng trong hoạt động văn học lúc này là gì? Tuy không có những tuyên ngôn hoàn chỉnh, song trên nét lớn có thể thấy đấy là nỗi khao khát của người đương thời nhằm giao lưu với tổ tiên để rồi hiểu nòi giống mình, tự nhận ra bản ngã chính mình, từ đó dám sống, ham sống, tin tưởng ở lẽ biến dịch vĩnh hằng của đời sống. Đó là ý nguyện của những người tới dự hội ở đây là người đọc văn. Mà đó cũng là ý nguyện của những người xướng tế, các cai đám, những người đóng vai trong hội – đây là những nhà văn, nhà thơ làm nên đội chủ lực của văn học lúc ấy.

Phần hội: – Trước kia đời sống văn học cả nước chỉ gồm nhiều hội làng nho nhỏ. Nay gộp cả lại thành một hội chung nên cũng rôm rả hơn hẳn.

Trong cuốn sổ tay của một phóng viên, thấy có ghi lại ít nét phác hoạ về đời sống văn học tiền chiến bằng ngôn ngữ của lễ hội. Người phóng viên này tính ưa nghịch ngợm nên đã vẻ lại hình ảnh các nhà văn bằng bút pháp ca-ri-ca-tuya, pha chút đùa cợt. Chép lại ở đây, chúng tôi không nghĩ rằng những nét phác hoạ này là sự đánh giá chính xác như trong các công trình nghiên cứu các bạn vẫn đọc.

*

*  *

… Xôm trò nhất phải kể là đám các ông thuộc Tự lực Văn đoàn. Nhất Linh đóng vai những chàng trai can trường theo đuổi sự nghiệp, quần áo rõ ra Âu hoá, song tính cách hao hao những nét nhân vật anh hùng trong tuồng. Các cô gái tân thời của Khái Hưng thì mới mẻ thậm chí còn bị coi là liều lĩnh khi dám coi tình yêu là thiêng liêng hơn hết mọi sự trong đời. Đám người đương thời tới xem – phần đông các cô áo tứ thân, răng đen, chít khăn mỏ quạ – nhìn những cô Mai, cô Hiền…, của Khái Hưng với cặp mắt vừa sợ hãi, vừa thèm muốn.

Ngay cạnh đấy Xuân Diêu cũng âu phục rất kẻng trai, với những búp tóc loà xoà trước trán, mắt ngước lên nhìn bầu trời xa xăm, nói khẽ những điều đang thổn thức trong lòng. Trước khi diễn trò, Xuân Diệu đã quả quyết rằng những ông Tây chính cống như Rimbaud và Verlaine cũng chỉ nhập vai như mình là cùng.

Có điều, bắt chước trò Tây, nhưng vẫn phải diễn cho ra phong cách dân tộc, người xem hội mới chuộng. Ông Nguyễn Vỹ tưởng tân tiến hơn, xì xồ giả giọng phăng-xe, mới được mấy câu, người xem đã lảng hết cả.

Tự lực Văn đoàn diễn được một lúc, mới thấy sân khấu bên ông Tân Dân mở màn. Cánh này làm ăn không được quy củ như bên Tự lực, nhưng từng người một ra trò khá độc đáo. Lê Văn Trương đóng vai một “người anh cả”, phải kiếm tiền nuôi các em trong nhà, một ông thầu khoán tán như khướu, song lại trọng nghĩa khinh tài, rút hàng tập giấy bạc ấn vào tay mấy chị cô đầu ế hàng, rồi lại biết phi ngựa bắn súng đuổi cướp, khiến người vỗ tay rào rào. Nguyễn Công Hoan trình bày một loạt hoạt cảnh rút ra từ sinh hoạt các phố như phố huyện, cũng như những cảnh sống bệ rạc, nhếch nhác của bọn con sen, thằng ở. Vũ Trọng Phụng oách hơn, vừa chỉ tay phù phép một lúc, thế là cả bọn lưu manh ấy trở thành ông hàn, ông nghị, nhà từ thiện, gã lang băm… để rồi véo von chửi đời nghe thật sướng tai.

Đây nữa, một người cũng lui tới ở gánh trò Tân Dân nhưng chỉ thủng thẳng đứng riêng ra một góc, và rất điệu nghệ trong các vai cổ: một ông quan thất thế, mấy nhà nho tài tử chán đời song lại ham chơi… Đó là Nguyễn Tuân.

Tiếng là chuyên đóng vai cổ, nhưng kỹ thuật trình diễn của Nguyễn Tuân vẫn là kỹ thuật  hiện đại (thỉnh thoảng ông vẫn chúi vào một góc, giở lại mấy trang sách của A. Gide xem mình làm đã đúng bài bản chưa, rồi mới chạy ra làm tiếp). Người xem hội tới chỗ Nguyễn Tuân phải yên lặng, chăm chú lắng nghe, chứ không được vừa xem vừa nói chuyện, rồi cắn hạt hướng dương tí tách như ở các đám khác.

Cũng là vai độc diễn, còn có cả Nguyễn Bính chuyên nhại giọng trai làng, ỡm ờ, duyên dáng, lời lẽ cứ ngọt như mía lùi, khiến đám các cô hàng xén mê tít cả một lượt, chùng trình đứng lại xem mãi.

Hội đã gần tàn, lại thấy xuất hiện thêm mấy kép hát mới, may mà toàn những trò lạ, người xem hội bỏ về không nổi: ông Nguyên Hồng quần nâu áo vải làm dân bên đạo vác thánh giá, lúc nào cũng nước mắt nước mũi giàn giụa khiến khối người sụt sịt khóc theo. Nam Cao thì nổi tiếng nhất là vai anh Chí khật khưỡng say rượu, chửi ráo cả làng, cạnh đó là giáo Thứ rầu rĩ, cái gì cũng thèm. Còn ông Tô Hoài dẫn theo một bầu đoàn thê tử các giống vật nào mèo, chó, trống choai, chuột bạch, ri đá… đủ loại. Riêng chàng Dế mèn được tiếng quen phiêu lưu đi đầu, nhưng khôn ranh có hạng, cứ đi vài bước, lại dừng chân nghe ngóng rồi mới đi tiếp!

Hội vui còn có ông Tản Đà xem bói và đọc thơ Đường, ông Vũ Đình Liên ngồi viết câu đối thuê, ông Lan Khai giả bộ mán mường, ông Bùi Hiển diễn lại phong tục làng chài xứ Nghệ, ông Chế Lan Viên trùm khăn đen làm ma Hời rú gọi bên các tháp Chàm, ông Thế Lữ dạy nghề trinh thám tư. Và đám mấy ông Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Nguyễn Tử Siêu thì bày ra một dãy các con rối, nhìn kỹ là các nhân vật lịch sử như Lê Chiêu Thống, Trần Thủ Độ, bà chúa Chè v.v…

Khó lòng kể hết những ngón trò được trình diễn tại kỳ hội lần này. Nhiều người đi hộ về vẫn xuýt xoa nhiều trò chưa xem được kỹ. May mà Ban tổ chức lễ hội đã kịp cho in bộ Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh để người ta về có quà lưu niệm mà khi cần cũng là tài liệu tra cứu thêm. Đây là loại dịch vụ xuất bản tân tiến, chỉ tới lễ hội “văn học tiền chiến “ mới thấy.

 

 

13. Các nhà văn Việt Nam

trước 1945 và nghề viết báo

 

Nhất Linh và Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, Thế Lữ và Xuân Diệu… Giờ đây, người ta thường thấy bên cạnh những tên tuổi đó, có kèm hai chữ nhà văn nhà thơ. Nói cho gọn hơn, ví phỏng như thời tiền chiến cũng có những thứ hội nghề nghiệp như bây giờ thì ai cũng  nghĩ chỗ của họ hẳn là bên Hội Nhà văn chứ không phải Hội Nhà báo.

Nhưng chúng ta nhầm!

Bấy nhiêu tên tuổi, nếu như không nói là hầu như gần hết các nhà văn “có tên có tuổi” hồi tiền chiến, đều từng là người viết báo, đóng góp của họ cho nền văn hoá đất nước còn đó với kho tàng báo chí sống động đương thời, và đến nay vẫn chưa được khai thác hết.

Những cộng tác viên thiện nghệ

Bao giờ thì cũng vậy thôi, trước khi viết các tác phẩm dài hơi, các nhà văn hãy thử viết ngắn cái đã. Mà nơi nào sẽ là sân chơi lý tưởng cho cuộc thể nghiệm ban đầu đó, nếu không phải là các tờ báo?

Tuy nhiên, có một sự thực là trước 1945, báo chí còn mới phôi thai mà người viết báo so với bây giờ lại còn ít, nên sau khi trình làng trên mặt báo, thì các nhà văn tương lai không rời bỏ cái “sân chơi” ấy ngay, mà có nhiều hình thức cộng tác hợp lý. Viết tiểu thuyết để đăng nhiều kỳ trên báo chỉ là một cách. Điều đáng nói hơn là các loại bài vặt, từng được mệnh danh đủ thứ: tạp bút, tiểu phẩm, phiếm luận… Đại khái mọi chuyện diễn biến như sau:  Thấy cây bút A, cây bút B viết được, báo mời ông ta nhận cho một mục để viết thường xuyên. Mục ấy, đặt hẳn ở một góc nhất định, trong một trang nhất định của tờ báo. Giở tờ báo ra, cứ đúng góc ấy trang ấy là có bài của tác giả ấy. Như cách nhìn của một số báo chí hiện nay thì làm thế là dành quá nhiều đất cho một người; là giúp người đó nổi trội hẳn lên so với người khác. Nhưng trước đây, các báo không nghĩ thế, ngược lại còn thấy tự hào bởi biết rõ rằng người ta mua báo là để tìm đọc người đã cộng tác với mình. Được bảo đảm một chỗ thường xuyên, nhà văn cũng yên tâm mà viết. Một người như Ngô Tất Tố từ lúc bỏ quê lên Hà Nội, sống hẳn bằng nghề cầm bút, đã cộng tác với nhiều tờ báo hàng ngày, bằng cách viết các loại tiểu phẩm đó, và ký bằng các bút danh khác nhau: Hy Cừ, Lộc Hà, Phó Chi, Xuân Trào, Thôn Dân v.v… May cho Ngô Tất Tố là ngay từ những năm 60, lúc các thư viện ở Hà Nội còn khá nền nếp, tác phẩm của ông đã được nhà nước chú ý, nên gom về gần như không sót chút gì. Thử tính sơ sơ thì thấy trong toàn bộ tác phẩm của Ngô Tất Tố đã sưu tầm đến này là 1.200 trang (theo Ngô Tất Tố, Tác phẩm NXB Văn học, 1977), phần tiểu thuyết bao gồm cả tiểu thuyết lịch sử, chỉ chiếm già nửa (620 trang), còn lại, phóng sự chiếm 160 trang và tiểu phẩm tới 420 trang. Nhưng đây không phải là đặc điểm riêng trong hoạt động làm nghề của ngòi bút Ngô Tất Tố. Ngay một nhà thơ nổi tiếng lơ mơ như Lưu Trọng Lư, lúc đi làm thuê cho báo Tao Đàn cũng đã viết rất nhiều bài “vặt” mà có khi chỉ ký một chữ tên tắt. Song đọc lên ai cũng biết ngay của tác giả Tiếng thu: đó là các bài viết về một lần thăm quê Nguyễn Du; mấy nhận xét về cuộc đời Nguyễn Công Trứ; mấy điều suy nghĩ khi đọc Trước đèn của Lãng Nhân; sau nữa là bài báo ngắn, báo tin Tản Đà qua đời. Nếu sưu tầm tất cả các bài Lưu Trọng Lư đã viết trên các tờ Tiểu thuyết thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Tao Đàn, Tràng An v.v… chắc chắn người ta vẫn có một tập sách đàng hoàng và… đọc được.

Những ông chủ giỏi bao sân

Như các tài liệu văn học sử còn lại đã ghi nhận, mãi tới 3/1933, Tự lực Văn đoàn mới chính thức ra đời, song ngay từ 9/1932 thì cơ quaqn ngôn luận của nhóm là tờ Phong Hoá (mua lại giấy phép của một người khác), đã làm ăn bài bản đâu vào đấy. Hơn thế nữa, nhìn kỹ vào Phong Hoá, Ngày Nay người ta thấy từ Nhất Linh, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ, Thạch Lam…, mỗi người một cách nhưng đều hào hứng đem hết sức mình đóng góp cho báo. Họ viết đủ các loại bài như điểm thời sự, đọc sách, trả lời bạn dọc, có khi kiêm luôn cả minh hoạ. Và làm gì thì cũng mang vào đấy cốt cách riêng cùng những yêu ghét riêng. Đọc một ít nhận xét của Thạch Lam khi xem diễn vở  Ông ký cóp hoặc cảm tưởng sau một lần đi xem giết người ta vẫn nhận ra cái yêu cầu rất cao về cuộc sống tinh thần, niềm quan ngại trước những vẻ đẹp mong manh rất tiêu biểu cho tác giả Gió đầu mùa. Cũng như đọc những bài Khái Hưng viết cho mục Câu chuyện hàng tuần, hay bài tường thuật buổi họp đầu tiên của Hội ánh sáng, người ta thấy ngòi bút ông vẫn tự nhiên, linh hoạt như khi viết tiểu thuyết.

Tương tự như Khái Hưng và Thạch Lam, trong số những người từng phải đứng ra bao sân cho một tờ báo còn có thể thấy nhiều nhà văn khác mà toàn là những cây bút nổi tiếng. Đó là Phan Khôi với tờ Phụ nữ tân văn và sau đó Sông Hương; Lê Văn Trương với tờ ích Hữu, Mộng Sơn với tờ Việt Nữ và trong chừng mực nào đó, Thâm Tâm (với sự cộng tác của Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính) ở tờ Bắc Hà. Riêng Vũ Bằng thì hầu như tất cả hồn vía để cả ở trang báo, không phải ngẫu nhiên, cuối đời, khi viết hồi ký, Vũ Bằng chọn tư thế một nhà báo chứ không phải nhà văn, và đây là dòng cuối cùng của Bốn mươi năm nói láo: “Mẹ ơi, con đành chịu tội bất hiếu với mẹ: nếu trở lại làm người con cứ lại xin làm báo!”.

Vẹn cả đôi đường

Một số nhà văn hôm nay, khi được mời viết bài, thường chối từ thẳng thừng, mà lý do nêu lên thì cũng rất thành thực:

– Hoặc sợ sa đà vào chuyện thời sự, sợ làm hỏng ngòi bút (theo một sự hiểu ngầm được nhiều người công nhận, những dòng chữ trên báo chỉ sống kiếp sống của con phù du sớm nở tối tàn, còn văn chương là chuyện lâu bền, vĩnh cửu).

– Hoặc tính quen kỹ lưỡng, tính toán từng câu từng chữ, sợ nhận viết báo rồi không làm đúng kỳ hạn, nhất là khi không có hứng.

Song thực tế sáng tác và báo chí tiền chiến cho người ta những ý nghĩ khác.

Trong một bài viết có ngả sang chất hồi ký, Nguyễn Tuân từng kể rằng đại khái viết báo hồi trước ba vạ lắm, có khi đi chơi đêm chán về toà soạn mới ngồi viết. Viết xong lăn ra ngủ luôn, bài để trên bụng, ông trị sự đến giờ tự động lấy mang xuống nhà in cho thợ xếp chữ.

ấy vậy mà có dòng nào bấy giờ Nguyễn Tuân viết ra không mang đậm dấu ấn phong cách riêng của ông và không phải văn chương thật hạt?

Một người bạn mà Nguyễn Tuân rất quý là Thạch Lam, viết Hà Nội băm sáu phố phường, thì cũng là để đăng báo trước, sau mới chắp nối lại thành sách.

Song đấy lại là một trong những quyển sách, vượt được thời gian, đã và sẽ sống bền, như một tác phẩm văn chương thực thụ.

Bài học của các nhà văn tiền chiến, rút lại, khá giản dị: người ta có thể đồng thời vừa làm việc cho báo, vừa làm việc cho văn. Cái trước mắt và cái vĩnh viễn không chỉ đối lập mà còn nương tựa vào nhau. Sự khổ công nghề nghiệp là chuyện của cả đời cầm bút chứ không phải chỉ tính bằng thì giờ ngồi trước bàn. Và chỉ có sự khác nhau giữa có tài và bất tài, chứ còn viết chậm hay viết nhanh là tuỳ, ở đây không có quy định máy móc nào hết.

 

 

14. Câu chuyện đại từ trong tiếng Việt

 

Giữa năm 1939, một tờ báo ở Hà Nội có cử người đến gặp một vài nhà văn để phỏng vấn rằng tại sao ông (bà) lại đi viết văn. Trong văn bản đăng báo, Thiết Can –  người đi phỏng vấn – có thuật lại một câu trả lời của Khái Hưng, khi tác giả Nửa chừng xuân được hỏi về Thế Lữ:

– Ông Thế Lữ không có ở đây, nhưng sáng mai, ông có thể đến gặp hắn được.

Trên tờ Ngày Nay số ra 24-6-1939, Khái Hưng thanh minh:

– Tôi nhớ rõ hôm ấy, tôi không dùng chữ hắn. Và từ xưa tới nay tôi cũng không dùng chữ ấy bao giờ với bất cứ ai. Vậy xin cải chính lời ông Thiết Can.

Sự cẩn thận của Khái Hưng trong trường hợp này không thừa vì đại từ trong tiếng Việt bao giờ cũng bao hàm một thái độ. Và muốn làm hỏng mối quan hệ giữa người này và người kia, chỉ cần tới một đại từ là đủ. Lý do để Khái Hưng cải chính là thế.

Có lẽ đấy cũng là một trong những cái cớ để đến cuối năm ấy, trên Ngày Nay các số 187 và 188, Khái Hưng cho in một bài mang tên Chàng và nàng Bài viết quy tụ lại ở mấy ý chính:

1. Hai đại danh từ (tức đại từ) đang được dùng phổ biến trong văn chương đương thời là chàng và nàng mặc dù có cái lạ, là trong đời sống hàng ngày, mọi người không mấy khi dùng. Trong một lần trò chuyện với Khái Hưng, Tản Đà khi ấy còn sống cũng đã nói thẳng với Khái Hưng rằng chàng nàng làm cho các tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái v.v… có giọng hơi quê.

Những đại từ khác thì ít được dùng hơn, vì sao?

– Chữ để chỉ những người dưới (theo Khái Hưng, chữ có lẽ bắt nguồn từ chữ nô, nô tì, trong tiếng Hán mà ra)

– Chữ hắn cũng còn có vẻ khinh miệt.

– Tiếng y thì ít phổ biến; vả chăng, đó là tiếng Hán nhập tịch.

– Chữ nghỉ có vẻ Việt Nam hơn, song lại có tính cách địa phương. Nghỉ chỉ được dùng một lần trong Truyện Kiều.

2. Có người cho rằng sở dĩ có hiện tượng trên, vì ý thức tôn ti trật tự ở ta quá rõ.

Theo Khái Hưng, ý đó đúng, nhưng không đủ. Còn một lý do nữa là sự yếu kém của văn chương chữ Nôm: “Các cụ ta viết văn Tàu, thì còn cần gì lưu tâm đến sự thiếu đại danh từ trong quốc văn, một thứ văn bá láp của dân gian(!). Nếu các cụ cũng băn khoăn khó chịu, cũng tìm tòi như chúng ta ngày nay, thì chắc hẳn chữ đại danh từ chung kia chúng ta đã có rồi”.

3. Trở lại với ngụ ý của tác giả khi viết bài này. Là một người viết tiểu thuyết, Khái Hưng thầm mong trong tiếng Việt có những đại từ như il, elle, he, she, tha, bỉ như ở các tiếng nước ngoài. Trước mắt, ông bảo không nên hạn chế chữ chàng nàng trong văn viết mà nên dùng cả trong khi trò chuyện. Mặt khác trong thâm tâm, ông “vẫn ao ước rằng một ngày kia, chữ y hay chữ nghỉ (có lẽ chữ này hơn vì chưa có nghĩa khinh miệt) sẽ được kế chân trong ngôn ngữ và văn chương”.

 

*

*  *

 

Phàm có sử dụng tiếng Việt để nói và viết, bất cứ ai cũng thường gặp những khó khăn như Khái Hưng đã gặp. Mấy nhà văn viết sau Khái Hưng một chút cũng đã có ý đi tìm một đại từ cho mình. Nam Cao hay dùng chữ y. Trong một số truyện, Tô Hoài thích chữ . Nhưng đó là những thể nghiệm cá nhân, chưa được xã hội công nhận. Nhìn chung, chúng ta vẫn thiếu những đại từ chỉ có sắc thái trung tính, dùng để nói về ai cũng được, mà không buộc phải bộc lộ thái độ của người nói với người được nói tới.

Thành thử, mặc dù viết ra đã gần 60 năm, bài báo của Khái Hưng vẫn có ý nghĩa thời sự của nó.

Làm thế nào để thoát ra khỏi tình trạng đã kéo dài quá lâu, và trở thành tự nhiên ấy? Thời gian càng đi tới thì đề nghị của Khái Hưng về việc dùng lại hai chữ chàng nàng càng khó được chấp nhận. Chàng nàng đã thuộc về một quá khứ lịch sử một đi không trở lại. Riêng ao ước của ông về việc sử dụng rộng rãi chữ y và chữ nghỉ xem chừng có cơ thực hiện hơn. Dùng chữ gì, ta có thể cùng bàn. Chúng tôi chỉ xin lưu ý một điểm: Đây là câu chuyện tập quán. Và ta cũng có thể đồng ý với Khái Hưng rằng: “Tập quán đó là một nhà thông thái trong ngôn ngữ một nước nhiều khi nhất định đòi thông thái hơn các nhà ngôn ngữ học”. Nhưng không nên để cho tập quán tuỳ tiện hình thành mà cần vận dụng thêm cả lý trí nữa. ở một số nước đã có những lúc, những vấn đề ngôn  ngữ toàn dân lo luật pháp quy định. Tức là có sự can thiệp của các biện pháp hành chính thì những tập quán tốt mới hình thành được. Theo thiển ý của chúng tôi, lúc nào đó, ở ta cũng nên làm vậy.

 

 

15. Vẫn là người cùng thế kỷ

Được viết xong từ năm 1922, mãi tới 1925, cuốn tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) mới được in ra lần đầu. Phải nhận rằng nỗi lo sợ của tác giả (sợ rằng mình quá mới!) không phải là vô lý.

 

Đại khái câu chuyện tình duyên Tố Tâm – Đạm Thuỷ mà Hoàng Ngọc Phách kể lại trong cuốn tiểu thuyết này vẫn có những nét nhang nhác như không biết bao nhiêu câu chuyện của những đôi trai tài gái sắc người ta vẫn quen đọc từ các truyện nôm vốn khá thịnh hành trong mấy thế kỷ trước. Cũng một thứ tình yêu bột phát vượt ra ngoài khuôn khổ thông thường. Cũng sự phản kháng âm ỉ nhưng quyết liệt ở người phụ nữ. Mà trước cái kết cục đau khổ do cuộc tình tan vỡ mang lại, thường khi phụ nữ vẫn phải gánh chịu phần nặng nề hơn, so với những người đàn ông “đối tác”. Khác chăng chỉ có khác là trong các tiểu thuyết bằng thơ nói trên, nhân vật thường trải qua một chặng đường khúc khuỷu bao gồm hội ngộ- lưu lạc- đoàn viên, nên cuộc đời như được trải ra rất rộng. Còn thế mạnh của Tố Tâm lại là ở chỗ khác… Nhờ tựa vào một thành tựu của thời đại là sự phát triển của các thể văn xuôi viết bằng quốc ngữ, ngòi bút Hoàng Ngọc Phách ở đây có dịp dừng lại khá kỹ lưỡng, tỉ mỉ ở tâm trạng của nhân vật chính, khiến cho đọc sách, người ta như được tham dự vào chính câu chuyện. Tuy không phải bước khởi đầu, song Tố Tâm lại đánh dấu sự trưởng thành của tiểu thuyết Việt Nam theo nghĩa hiện đại.

Ngoài sự gắn bó với văn mạch dân tộc, còn một khía cạnh nữa theo tôi cũng rất lý thú, khi nhìn lại Tố Tâm bằng con mắt của con người cuối thế kỷ.

Lâu này, mỗi khi nói đến xu thế Âu hoá với tư cách một hướng vận động của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX, cái giọng chung toát ra qua văn chương là giọng chế giễu. Nguyễn Khuyến, Tú Xương còn nói đến đàn ông, đến sự lập thân ( Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt – Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng hoặc Chi bằng đi học làm thầy phán Tối rượu sâm banh sáng sữa bò. Đến nguyễn Công Hoan chẳng hạn. Đọc Cô Kếu gái tân thời, Thế là mợ nó đi Tây…, trước mắt chúng ta thấy hiện lên toàn hạng phụ nữ hư hỏng, hoặc học đòi dơ dáng hoặc nhẫn tâm xảo quyệt. Nhưng trong thực tế còn có một cách hiểu khác. Cơ chế Âu hoá sở dĩ hình thành được vì nó phù hợp với lịch sử.

Một tiểu thuyết như Tố Tâm khẳng định với chúng ta điều đó. Theo cách mô tả của Hoàng Ngọc Phách, mối tình Tố Tâm – Đạm Thuỷ ở đây quả có “Tây” hơn so với người xưa thật. Tác giả của nó cũng không giấu diếm ý đồ là viết một cuốn tiểu thuyết theo kiểu phương Tây mà ông đã được đọc. Song cả hai sự Âu hoá – cả ở nhân vật lẫn tác giả – không làm ai khó chịu. Hoá ra, suy cho cùng, bước chuyển biến thấy trong xã hội cũng là nguyện vọng của mỗi người bình thường. Không có gì phải xấu hổ khi theo đuổi nguyện vọng đó, miễn là chúng ta biết làm một cách thông minh và tự trọng! Phải chăng, chính ở điểm này, vào lúc đất nước đang có sự hội nhập rộng rãi với thế giới, với những người sống ở cuối thế kỷ như chúng ta, bước đi của Hoàng Ngọc Phách trong Tố Tâm lại càng trở nên gần gũi?

 

 

16. Chân trời không bao giờ cũ

 

Hồ Dzếnh qua đời ở tuổi 75, song quả thật, ông hầu như đã ngừng viết trước dó rất lâu. Sau hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) cũng đã có một vài cuốn sách mang tên ông được xuất bản – cả sách sáng tác lẫn sách dịch – có điều chúng không có gì đáng kể và sự thực là trong cuốn Hồ Dzếnh tác phẩm chọn lọc làm năm 1987 khi ông còn sống, phần chủ yếu vẫn là tập truyện ngắn Chân trời cũ cùng ít bài thơ trong Quê ngoại. Bảo rằng về già, Hồ Dzếnh sống trong chờ đợi thì cũng không hẳn. Những gì tâm huyết đã mang cống hiến cho đời và ông sống khá thanh thản. May mà trong trường hợp này lịch sử đã công bằng. Mấy năm trước khi mất, chẳng những Hồ Dzếnh có tuyển tập mang tặng bạn bè mà ông còn có dịp chứng kiến Chân trời cũ được in lại ở mấy chỗ, trong sự tha thiết yêu chiều của bạn dọc, nhất là những bạn đã đọc văn Hồ Dzếnh từ lâu, mà không kiếm được sách. Thật là một sự ơn trả nghĩa đền xứng đáng.

Cuộc đời mỗi nhà văn – cũng giống như cuộc đời mỗi con người – là một cái gì độc đáo, không ai giống ai, và mọi ý muốn người ta áp đặt cho nhau, khuyên bảo nhau, suy cho cùng, đều chả mấy nghĩa lý: số phận là cái không ai có thể chọn lựa. Dẫu sao nghĩ lại thì thấy trừ những kẻ bất tài và lười biếng, ở đây, trong văn chương đại khái có hai cách tồn tại. Mọt là những tác giả, viết luôn tay, viết đều, có khi lại hoạt động trên các thể loại khác nhau, và như có bàn tay vàng, làm gì cũng nổi lên tự nhiên và sự nghiệp toà ngang dãy dọc đồ sộ. Và thứ hai là loại người sống như kẻ lơ đãng, tâm trí để tận đâu đâu, họ chỉ viết rất ít, cả một đời văn thu gọn trong một vài quyển sách chi đó. Song chỉ thế thôi mà cứ là sống mãi trong lòng người yêu văn chương. Không nói đâu xa, ngay trong các nhà văn Việt Nam thế kỷ hai mươi cũng đã thấy có sự phân chia đôi ngả đôi dòng như vậy. Một bên là Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan, Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bính… và bên kia là Thạch Lam, Thanh Tịnh, Nguyễn Nhược Pháp, và lùi về phía sau một chút, là Quang Dũng. Cố nhiên, Hồ Dzếnh cũng thuộc cái loại thứ hai chúng ta đang nói. Tên tuổi ông gắn liền với Chân trời cũ, ở đó người ta đọc ra tiểu sử, những từng trải riêng của đời sống và cả cách cảm cách nghĩ riêng của Hồ Dzếnh trước cuộc đời này nữa. Mặc dù được viết ra khi tác giả mới 26 tuổi, và chủ yếu nói về những năm tuổi trẻ của một đời người, song Chân trời cũ lại có một sự già dặn riêng. Nó là thứ văn chương không có tuổi. Thậm chí – bây giờ đã đến lúc có thể nói được điều này – nó là thứ văn chương viết xong người ta có thể gác bút, có thể buông tay nhắm mắt.  Và chỉ nhờ thế, cuốn sách chưa đầy 200 trang đó, mới đủ tư cách để đưa một con người trở thành một tên tuổi vĩnh viễn trong lịch sử văn học. Những người có dịp gặp gỡ Hồ Dzếnh mấy năm cuối đời hẳn còn nhớ ông già trên 70 tuổi ấy luôn luôn có cái vẻ thản nhiên, hình như mọi chuyện “thế sự buồn rầu và cảnh đời hùng tráng” – chữ của Hồ Dzếnh – mình đều đã biết cả rồi, thiệt hơn thế nào cũng được, cuộc sống là thực mà cũng là một cõi hư vô nào đó. Thành thử, ông lại luôn luôn tìm được niềm vui hồn nhiên của mình. Nụ cười ấy đã thường trực trong tâm trí Hồ Dzếnh cho đến khi ông chia tay chúng ta.

Một bài thơ không có trong tập Quê ngoại:

Buồn chiêu quân

Hôm nay em lấy chồng đây

Gấp tư tờ lịch, nhớ ngày em đi

Bây giờ mới biết mình si

Đời yêu thêm một bài thi Lấy chồng

Chúc cho má ấy thêm hồng

Cho duyên ấy đẹp cho lòng ấy tươi

Chúc cho người ấy quên tôi

An vui số phận trong đời ẵm con

Chiều nào nghe xuống hoàng hôn.

Tôi rười rượi nhớ, quay hồn về mơ

Chiêu Quân biệt Hán, sang Hồ

Có buồn cũng đến như là … thế thôi

Hồ Dzếnh

17. trăng vàng vỡ nửa hay là

chất bi tráng ở Văn Cao

 

Văn Cao là một tài năng đa dạng. Không chỉ viết nhạc, vẽ tranh, sáng tác kịch, mà ông còn làm thơ. Và nếu như có một tuyển tập thơ Việt Nam sau Thơ mới, ghi nhận những tìm tòi mang tính cách thi pháp của thơ Việt Nam sau cái model chuẩn, mode tối ưu một thời là Thơ mới, thì bên cạnh những Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng…, người ta phải dành một vị trí cho Văn Cao, với những tìm tòi đã trở nên thuần thực trong Những người trên cửa biển (1956) hoặc trong chừng mực nào đó, không chín bằng, nhưng vẫn khá độc đáo, trường hợp tập về sau.

Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu, Văn Cao đã đi tới ngay được những thành tựu xuất sắc đó. Trước khi làm cái hành động về mặt thi pháp tạm gọi là phá cách, ông cũng có những bước xuất phát như mọi người.

Bài thơ Anh hùng ca, in trên Tiểu thuyết thứ bảy số ra 3-10-1942 (số 433) minh chứng cho điều đó.

Hoài Thanh từng viết trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941: giữa lúc thơ Pháp đang gây ảnh hưởng rộng rãi thì một số nhà thơ trong phong trào Thơ mới lại quay về với thơ Đường. Ngoài Quách Tấn, Đông Hồ, Thái Can, và trong chừng mực nào đó, cả Huy Cận nữa…, phải lưu ý riêng hai trường hợp Trần Huyền Trân và Thâm Tâm. Đây là thơ Trần Huyền Trân trong bài Hết cố nhân:

Ta trở về đây không gối chăn

Một mình ly rượu rét căm căm

Không là lính thú sầu lên ải

Cũng thấy lòng chia dưới cát lầm

Và bài Phạm Ngũ Lão:

Mặt trận đêm nay mừng đắc thắng

Rượu nồng sôi máu đỏ – ô hay

Men buồn nhẹ bốc trong lòng vắng

Thoáng bóng ai trong cốc rượu đầy

Đây nữa, thơ Thâm Tâm trong bài Vạn lý trường thành:

Trăng thấm nghìn đêm lệ chửa khô

Nghìn muôn vợ trẻ nhớ trai phu

Đầy kinh sương muộn mang tang tóc

Chia khắp lòng dân oán toả mờ

Mưa rửa nghìn đêm máu chửa phai

Nghìn muôn trai tráng sống còn ai

Trăm thân già héo trăm chiều xế

Lặng kiếm hồn con xuất ải dài.

Thơ Văn Cao trong Anh hùng ca là đi vào cái mạch ấy. Cũng những chi tiết thường thấy trong thơ biên tái đời Đường: lính thú, quan ải, thê nhi, đá vàng, máu, rượu. Cũng những chữ Hán đã quá quen thuộc: thiên bôi đối ẩm, quan san, trùng dương hận, khuê nữ… Cũng những đau đớn, bất lực, tạo nên những kìm nén, những bi phẫn toát ra trong cách ngắt câu, cách tạo giọng điệu. Và sau hết là cái cảm giác chung về một đời sống bức bách, khi mà giữa cái sống cái chết chỉ còn một khoảng cách vô nghĩa lý; và người ta chỉ còn cách tìm quên lãng trong chén rượu, mà cũng không quên nổi!

Chúng ta nhớ bài thơ in ra tháng 10-1942. Chỉ vài năm sau là nổ ra cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử, trong đó, sự có mặt của Văn Cao là sự có mặt của một chiến sĩ với nghĩa đích thực của chữ ấy.

Cũng nên chú ý tới mối liên hệ giữa Anh hùng ca với lời ca bài Tiến quân ca Văn Cao viết trong cao trào Việt Minh[2]

– Thề phanh thây uống máu quân thù

… Từ bao lâu ta nuốt căm hờn

… Tiến lên cùng thét lên

Hoặc lời ca trong các bài Bắc Sơn, Không quân Việt Nam…

Là ca sĩ của những Suối mơ, Thiên Thai, đồng thời Văn Cao lại còn là ca sĩ của những hành động anh hùng, hành động siêu việt nữa.

Anh hùng ca

Mắt sáng ngời lên như ánh dương,

Rượu hồ, da đỏ, khách ly hương.

Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải:

Quằn quại cờ bay trong gió sương.

Lắng nhe dòng máu ta đang sôi!

Say nữa! Say lên tráng sĩ ôi!

Lòng thép vang rền: xương gẫy rạn,

Sa trường: than ôi là tơi bời!

Chuyện thê nhi: Bẻ trâm vàng đi!

Khăn lụa người cho lau máu đi!

ảnh tặng giấu vào trong ngực áo!

Trở về? Không! Chỉ có ra đi!

Quan san xa cách trùng dương hận.

Cười ré lên nào! Rú nữa lên!

Da đỏ trời ơi là máu! Máu!

Bên ngoài quan ải lính thay phiên.

Đập vỡ cho ta hồ rượu này!

Chén thù uống cạn nhớ đêm nay;

Trăng vàng vỡ nửa, gương tình lỗi

Khuê nữ đâu say hơn rượu đầy?

Anh em! Anh em! Hãy cố say!

Mai gặp nhau chăng hay gặp thây?

Da cổ ví dầy đầu đỡ rụng,

Thây anh rồi lấp với thây này.

Xót đời lính thú không tên tuổi,

Cả một nghìn thây đổi lấy thành,

Nói đến cuộc đời còn chẳng tiếc,

Tiếc gì nước mắt đón đưa, anh?

Văn Cao

18.Nền và đỉnh

 

Nếu cần chọn ra một trăm bài thơ hay nhất của thế kỷ XX, người ta nhất định phải lấy Tống biệt hành của Thâm Tâm. Song chính trong thời gian viết ra những câu thơ bất hủ ấy, tác giả còn cho in nhiều truyện ngắn mà đến nay vẫn chìm trong quên lãng. Tại sao? Qua việc tìm hiểu số phận các sáng tác của Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình (1917-1950), có thể rút ra một vài quy luật chung của văn chương.

 

Từ những năm dúm dùm làm báo Bắc Hà với Trần Huyền Trân và Nguyễn Bính, cho tới những ngày làm thuê viết mướn cho Tiểu thuyết thứ bảy, Thâm Tâm trong đời sống văn học trước 1945 được biết tới như một kẻ khá lận đận. Qua những năm kháng chiến chống Pháp, khi Thâm Tâm chuyển về công tác ở báo Vệ quốc quân, người ta không thể nói là ông lận đận nữa, nhưng trong những ngày gian khổ ấy, tìm đâu ra chút bình tâm để trau chuốt mấy câu thơ như ý muốn! Và rồi cái chết ập đến, Thâm Tâm ra đi ở tuổi 33. Cho đến cả khi qua đời rồi, đấy vẫn là một số phận không may, ít ra là về đường văn nghiệp: Tập thơ riêng của ông mãi tới 1987 (còn sống, ông đã bảy mươi!) mới được in ra, mà lại là một tập thơ mỏng mảnh, chỉ vài chục trang, không đủ làm nên một cuốn sách có gáy. Hỡi ơi, Thâm Tâm khí phách, Thâm Tâm tài hoa! Không chừng chung quanh câu chuyện giời ơi đất hỡi về T.T.K.H., người ta còn chi ra nhiều giấy mực hơn, so với các trước tác do chính ông viết.

Chắc hẳn nhiều người đã nghĩ thế và tôi cũng nghĩ thế.

Vốn sẵn cảm tình với tác giả Can trường hành, Tống biệt hành… cho tới gần đây, có dịp đọc ít trang Tiểu thuyết thứ bảy, tờ báo chuyên về văn chương, phong cách bình dân như cơm bụi, do đó, thuộc loại phổ biến nhất, mấy năm trước 1945, tôi sung sướng nhận thấy trên Tiểu thuyết thứ bảy năm 1942-1943, cứ khoảng hai tuần một lần, loại một sáng tác văn xuôi hoặc kịch ngắn (thực chất cũng là một thứ văn xuôi biến dạng) của Thâm Tâm (khi ký tên thật Tuấn Trình, khi ký bút danh Thâm Tâm). Đến Nam Cao hồi ấy, đang độ chín của ngòi bút, cũng chỉ cho in đều đều đến thế.

Với tâm lý của một người làm nghề xuất bản, những mong săn được của quý trong sách báo lưu trữ, tôi thoáng ngạc nhiên: sao với Nam Cao, người ta đã sưu tầm sạch sành sanh, còn với Thâm Tâm, tác phẩm bỏ sót còn nhiều thế này?!

Nhưng đọc kỹ, tôi nhận ra là tôi mừng hụt. Chính tôi tưởng lầm chứ không phải người trước bỏ sót. Trong khi tác phẩm Nam Cao tự chứng tỏ sức sống mạmh mẽ ở khả năng gia nhập vào đời sống hiện đại của chúng – các thế hệ bạn đọc hôm nay vẫn có cảm tưởng nhiều truyện Nam Cao như viết dành riêng cho mình – thì (xin lỗi, cho phép tôi nói thật!), truyện ngắn của Thâm Tâm hiện ra cũ càng, xa lạ. Những gì mà vào thơ trở thành những bài thơ bi phẫn, u uất, và có một cốt cách cao quý, lúc qua văn xuôi, lại hoặc nhạt nhẽo, hoặc bơ vơ không đâu vào đâu, giống như hồi quang lờ mờ hiu hắt của một cách nghĩ cách cảm có phần lỗi thời.

Trách chi, trong một tài liệu sưu tầm nghiên cứu khá công phu như Tổng tập văn học Việt Nam, hai tập 30A và 30B, các soạn giả chỉ chọn cho Thâm Tâm có một truyện ngắn (truyện Tháng ba sấm động), ngụ ý để bạn đọc thêm cho có ý vị, trong khi Nam Cao, cũng như Nguyên Hồng, trở thành tác giả trụ cột của bộ sách.

Tôi kể những chuyện này để làm gì?

Thứ nhất, về mối quan hệ giữa đời người và sáng tác. Hoá ra, sự lận đận trong đời và những tâm huyết trong khi viết không phải là bảo đảm chắc chắn cho chất lượng tác phẩm. Người ta có thể sống rất cơ cực và gửi gắm nhiều đau đớn xót xa vào các dòng chữ mà khi in ra, tác phẩm vẫn cứ nhạt nhẽo, vơ vẩn và không làm ai cảm động. Đây là điều đã xảy ra ở nhiều người, không riêng gì Thâm Tâm.

Thứ hai,  về một quy luật tồn tại trong văn học và nói chung là một đặc điểm của văn học: ở cùng một tác giả, có khi cả vài ngàn trang hậm hụi viết ra lại trôi tuột đi, trong khi một bài thơ vài chục câu viết vội trong bữa rượu tiễn bạn – như trường hợp bài Tống biệt hành – lại trở thành bất hủ và còn mãi với đời. Văn chương thật đỏng đảnh, thật tai quái chăng? Có lẽ thế. Song nếu nghĩ lại, và nhận ra rằng biết đâu, chính từ hàng ngàn trang đã viết ra kia, cố kết lại, rồi người cầm bút mới ứng tác được mấy chục câu thơ này thì người ta lại như được an ủi. Văn chương vẫn có cái lý riêng và lẽ công bằng riêng của nó!

 

 

19. Tưởng nhớ Nguyễn Hiến Lê

 

Nếu có một cuốn Guinnetss ở Việt Nam, thì Nguyễn HIến Lê (1912-1984) đáng được ghi ít nhất ở hai mục 1) Nhà khảo cứu có sách in ra nhiều nhất ở Sài Gòn trước 1975. 2) Nhà viết sách có tiếng được in lại nhiều nhất từ sau 1975 đến nay, in và đón nhận một cách trân trọng, đàng hoàng, vì người ta biết rằng ở đó có những giá trị nhân bản không bị thời gian làm phai nhạt.

 

Nhà bách khoa. Sách viết cho “bách tính”

Theo tài liệu ghi ở cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của NXB Khoa học xã hội (1991) thì Nguyễn Hiến Lê sinh tại Phương Khê – Quảng Oai – Sơn Tây ngày 8-1-1912. Nhưng từ 1934, ông đã sống và làm việc nhiều ở các tỉnh Nam Bộ và có sách in ra đều đều ở Sài Gòn từ 1954. Nhìn qua danh mục sách viết của Nguyễn Hiến Lê, người ta thấy ông là một nhà nghiên cứu bách khoa. Ông thích lịch sử văn học, thạo văn học cổ Trung Quốc, nhưng cũng để tâm nhiều tới các khoa học nhân văn hiện đại, như tâm lý học (đặc biệt là tâm lý học thiếu nhi), lại sẵn sàng viết sách về các vấn đề thời sự trước mắt, miễn đó là vấn đề đáng được quan tâm. Hình như có lần ông đã nói đùa với bạn bè “không biết cái gì thì nhận viết sách về cái đó, để mà có dịp… học”. Hình ảnh của ông hiện lên qua các trang sách là hình ảnh một người thông minh, mau mắn, ham học, dùng cái lương tri, cái cận nhân tình của mình để hiểu thiên hạ. Rôi ông viết sách để chia sẻ hiểu biết của mình cho đông đảo bạn đọc, hào hứng mà viết, tận tình mà viết, với nghĩa rằng mình đã mất công rồi, phải viết lại sao cho người khác đỡ mất công mà cũng hiểu được như mình. Ngay từ trước 1975 ở Sài Gòn, một nhà văn có tiếng là mê Nguyễn Tuân, người rất kỹ càng tinh tế trong nhận thức và thẩm định, đã phải có lời ngả mũ bái phục Nguyễn Hiến Lê: “Từ hồi nào tới giờ, ông Nguyễn vẫn có tài của một nhà giáo, là trình bày ý kiến thật rành mạch, sáng sủa, khiến những vấn đề rắc rối tối tăm nhất cũng hoá ra giản dị, minh bạch”. “Trong lối viết gẫy gọn, thẳng thắn của ông Nguyễn có cái đột ngột, gần như thân mật”. Thật là một phong cách lý tưởng để viết sách cho đông đảo mọi người, một tiền đề tốt để đến với “bách tính” (trăm họ), điều mà người làm văn hoá chân chính nào cũng ao ước.

 

Tầm vóc học giả và cốt cách thi nhân

Do sự phát triển của mỹ văn (belles lettres), khái niệm nhà văn hiện đại ở ta thường được giải thích như là người thực hành trên ngôn ngữ. Nghĩa học giả bị đẩy hoàn toàn sang nghĩa khoa học.

Trong khi, từ 1930 về trước, hai khái niệm này được coi là cùng nghĩa; nhà văn trước tiên là người có tầm học rộng, uyên bác; đồng thời là một nghệ sĩ trong phong thái, bao gồm cả cách sống lẫn cách viết.

Phải nói rằng Nguyễn Hiến Lê là một thứ mẫu mực hiếm hoi còn sót lại của cách hiểu nhà văn theo nghĩa đó. Tầm rộng trong học vấn của ông không ai có thể nghi ngờ. Song sở dĩ văn ông vẫn có được sự dễ dàng thanh thoát, mà lại có sức lôi cuốn, ấy là vì luôn luôn ông cho người ta cái cảm tưởng như được tiếp xúc với một nghệ sĩ. Nghệ sĩ trong chữ nghĩa câu cú. Và nhất là nghệ sĩ trong một quan niệm sống, toát ra qua các trang viết, ở đó, có cái thiết thực, chặt chẽ, lại có cái siêu thoát; có niềm ham hố không cùng muốn được biết thấu đáo mọi chuyện, song lại có lời cổ vũ ngấm ngầm cho một cách sống ý nhị, biết đùa, biết nghe. Ta nhớ Nguyễn Hiến Lê tác giả của những cuốn sách dạy lập nghiệp, dạy “tổ chức công việc theo khoa học” – lại cũng là người sớm dịch Một quan niệm về sống đẹp của Lâm Ngữ Đường ra tiếng Việt. Ông đã lấy chính cách sống của ông để hiểu họ Lâm và tìm được cách truyền đạt cái khôn ngoan tinh quái, đồng thời là cái ham chơi, ham hưởng thụ rất Tàu… ở ngòi bút họ Lâm tới bạn đọc.

Con người của sự hoà nhập

Xem xét lại các tài liệu Nguyễn Hiến Lê có trong tay mỗi khi viết sách, người ta biết ông sử dụng thành thạo cả tiếng Anh, tiếng Pháp, lẫn chữ Hán. Vả chăng, vấn đề không phải chỉ ở chỗ giỏi tiếng. Cách tư duy Anh-Mỹ, với tất cả cái ngắn gọn, khúc triết và tinh thần thực dụng của nó, như thấm vào ông, toát ra ở việc sử dụng tiếng Việt, lối kể chuyện, cách bố cục các cuốn sách, cho tới mấy lời tâm sự ông viết sau khi soạn sách. Đối với nhiều người, điều này giống như một gợi ý, một sự cổ vũ: sẽ đến lúc, cái nhanh, cái hoạt của nếp tư duy hiện đại ấy đến với chúng ta, nếu như chúng ta biết học. Lạ một nỗi, lối tư duy ấy được Nguyễn Hiến Lê trình bày như là con đường trở về với chất Đông phương cổ điển. Cách đây nửa thế kỷ, Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại từng kể lại một nhận xét sâu sắc của ứng Hoè Nguyễn Văn Tố: “Điều thú vị trong Tứ thư, không kể đến lý thuyết, chính là những cái đột ngột bất thường, không theo luật lệ câu văn”. Cái thân tình của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê mà nhiều người đã nhắc tới, là cái thân tình cổ điển ấy. Phải chăng, ngay từ trong những năm đất nước còn trong khói lửa chiến tranh, Nguyễn Hiến Lê đã dự đoán rằng sẽ đến lúc nhu cầu hoà nhập với thế giới là nhu cầu lớn của văn hoá ta, và chỉ có học, học tất cả, cả cổ cả kim cả đông lẫn tây, chúng ta mới có cơ may tìm tới bản lĩnh dân tộc chân chính?

 

 

20. Thơ ca là để chống lại sự quên lãng

 

Vĩnh biệt tác giả Ông Đồ

 

Dù nhiều hay ít, mỗi nhà văn nhà thơ thường có một hai tác phẩm thuộc loại đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác, ấy là một lẽ thường tình.

Nhưng trong văn chương xưa nay lại có một loại tác giả hoặc viết quá ít, hoặc nhiều cái đều đều, gần như không có gì nổi, song lại có một tác phẩm duy nhất vượt hẳn lên về giá trị và được truyền tụng rộng rãi, khiến cho nói tới tên tuổi người đó là người ta nhớ ngay tới cái thành tựu “cây có một cành, cành có một quả” độc đáo nọ. Cái mẫu hình Thôi Hiệu với bài Hoàng Hạc lâu trong thơ Đường còn thấy lặp lại nhiều lần trong văn học Việt Nam hiện đại. Đó là Trần Mai Ninh với Tình sông núi, Hoàng Lộc với Viếng bạn, và trước đó, Nguyễn Vỹ với Gửi Trương Tửu… Đó cũng là trường hợp của Vũ Đình Liên, nhà giáo lão thành, một vừng trán lớn của giới giáo dục Việt Nam – Vũ Đình Liên từng có mặt trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941 của Hoài Thanh- Hoài Chân với tư cách là tác giả bài Ông đồ và thường trở đi trở lại trong nhiều tuyển thơ thế kỷ, với chính bài Ông đồ đó.

Ông đồ có gì lạ, mà có sức sống dai dẳng như vậy? Ra đời hơn sáu chục năm trước, bài thơ ghi lại một nét tâm trạng của con người Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Trong khi xã hội tưng bừng và ồ ạt làm cuộc Âu hoá toàn diện, người ta cảm thấy một nền văn minh đang qua đi, và lòng người ta xót xa, luyến tiếc. Những vẻ đẹp sắp tàn lụi là những vẻ đẹp không chói lọi. Nó gợi tình thương. Bởi nó mong manh dễ vỡ. ấy thế nhưng nó lại có sự bền chắc riêng. Vẻ mộc mạc trong bút pháp, cái kín đáo trong tình cảm mang lại cho Ông đồ một thứ dư ba kỳ lạ. ý ở ngoài lời. Và càng đọc, người ta càng thấy mình không chỉ thương cảm với một lớp ông đồ hay chữ nay quá thời lạc lõng, mà còn cảm thấy bùi ngùi trước tất cả những gì tốt đẹp, bị thời gian đẩy vào quên lãng. Và hình như thơ nảy sinh ở chỗ đó, thơ nảy sinh để chống lại quên lãng!

Sinh năm 1913, có thơ đăng từ những năm 1930, nhà thơ Vũ Đình Liên qua đời tại Hà Nội ngày 18-1-1996. Giữa khung cảnh đại hàn mưa phùn giá rét, nhiều người đi xe tang tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng, trong đầu óc không khỏi tháng qua cái hình ảnh những ông đồ trải chiếu viết câu đối thuê trên vỉa hè mấy phố Lãn Ông, Hàng Bồ hồi nào. Chắc chắn là vào những ngày này, khó lòng bói ra một ông đồ như vậy trên các phố cổ Hà Nội. Nhưng chính bởi thế người ta tìm ra một chút ấm lòng trước những gì Vũ Đình Liên để lại. Chỉ bằng một bài thơ nhỏ 25 câu, 100 chữ, ông đã ghi lại được một hình ảnh đã qua đi cùng lịch sử, để nó có thể vĩnh viễn tồn tại trong tâm tưởng nhiều thế hệ bạn đọc. Và đó chính là sức mạnh kỳ lạ đến ma quái của thơ ca, của văn chương.

 

Ông đồ

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay.

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ

Vũ Đình Liên

 

 

21. Những lời rao hàng sáng giá

(Nghệ thuật quảng cáo sách xưa và nay)

Với tất cả cái thân tình và sự sắc sảo phải có, một khách nước ngoài đã vui vẻ nhận xét về một số khách sạn ở ta: “Bây giờ những người ở đây rất muốn làm vừa lòng khách. Có điều, làm thế nào để khách vừa lòng thì họ không biết. Nhưng đấy không phải là cái trớ trêu độc quyền của ngành du lịch. Phải nói là tình trạng trớ trêu ấy ngự trị trong cả loạt khu vực hoạt động khác. Nhiều việc ta đã từng làm, song có một dạo coi là việc không đáng làm nên bỏ hẳn. Nay tính chuyện làm lại, nhưng hình như đã quên hết cả cách làm. Cứ lúng túng như thợ vụng mất kim, không sao xoay sở nổi để làm… cho coi được một chút.

Ví dụ như chuyện quảng cáo sách, ở đây chỉ nói riêng về quảng cáo cho các tác phẩm văn học. Suốt mấy chục năm (từ 1986 về trước), việc làm sách được bao cấp, xã hội luôn luôn đói sách nên không ai nghĩ tới chuyện quảng cáo cho sách làm gì. Thỉnh thoảng lắm, các nhà xuất bản mới cho in trên một vài tờ báo danh sách những sách mới. Sách mới của nhà xuất bản X… Sách mới của nhà xuất bản Y… Vậy mà người ta đã coi là đủ lắm rồi. Cũng chẳng cần thông báo chi cả, mà vẫn ùn ùn người đến xếp hàng cửa sau, chờ ký duyệt giấy giới thiệu để xin mua, thì việc gì phải lo quảng cáo cho thêm rách việc!

Khi không cần quảng cáo, không muốn quảng cáo, người ta cũng có ngay những lý do để chê bai nó. Rằng nó làm hại tới mối quan hệ giữa tác phẩm và người đọc. Rằng nó là công việc của những anh kiểu Xuân-tóc-đỏ, nói phét ăn tiền. Rằng nó gần như là bịp bợm. Mà bịp bợm thì… là chuyện dễ ợt, lúc nào làm chẳng kịp!

Những nhận xét ấy cũng có cái lý của nó. Trong cơ chế thị trường, quảng cáo nhiều khi tung hoành quá đáng khiến cho thật giả lẫn lộn, hay dở không phân biệt nổi. Những lời lẽ huênh hoang ở đây không bao giờ thiếu, muốn lấy bao nhiêu ví dụ cũng được. Có điều, không phải tất cả quảng cáo xưa nay là như vậy. Do chỗ dễ dàng bị tai tiếng, nên công việc này thật ra lại có vẻ nghiêm túc cao sang riêng cho nó! May thay là từ đầu thế kỷ này, nhiều nhà xuất bản ở ta đã tung ra những quảng cáo đáng được chúng ta khâm phục. Được đăng rải rác trên những Phong Hoá, Ngày Nay, Thanh Nghị, Tri Tân, Trung Bắc chủ nhật…, những quảng cáo dưới đây có liên quan đến những tác phẩm mà ngày nay, chúng ta còn đang in lại, đang thích đọc, nên có thể nói những quảng cáo này đã được thời gian kiểm nghiệm.

– Quảng cáo Giấc mộng con I và II của Tản Đà: Một thiên tiểu thuyết rất diễm lệ… Tả hai giấc chiêm bao chơi khắp thế giới, lên đến cả thiên đường. Rồi nhiều công phu khảo cứu, rất nhiều điển cố văn chương. Lời văn đẹp đẽ du dương như cung đàn nhịp phách.

– Quảng cáo Hương cố nhân: Tập thơ hay nhất của Nguyễn Bính. Mối tình cao quý giữa hai nhà thơ nổi tiếng hiện thời.

– Quảng cáo “Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp: Một thế giới luộm thuộm nheo nhóc ồn ào kỳ dị, với bao tấn kịch, hoặc vô cùng bi ai, hoặc hào hùng quyết liệt.

– Quảng cáo Nửa đêm: Nam Cao là một nhà văn chuyên tả phong tục thôn quê Việt Nam với một ngòi bút danh thép. Nếu các bạn muốn hiểu người dân quê Việt Nam một cách sâu sắc, nếu các bạn muốn có những kiến thức rất thực về thôn quê Việt Nam, nói tóm lại nếu các bạn muốn hiểu đồng bào một cách chu đáo, các bạn đều nên có cuốn Nửa đêm của Nam Cao.”

Quảng cáo Quê người của Tô Hoài: “Dưới ngòi bút tác giả, tất cả cái xã hội lố lỉnh đáng thương ở nơi bờ tre đồng lúa được phác hoạ rất tinh tế, cặn kẽ”.

– Quảng cáo Tuỳ bút: “Đã đọc Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, ta nên đọc cuốn Tuỳ bút của ông để ta cũng biết sống một cách chăm chỉ, có thi vị, thấy cái đẹp ở khắp các việc, người và cảnh ở chung quanh ta” v.v… và v.v….

Những ai muốn ghét bỏ quảng cáo, đọc một số đoạn “văn bia” nói trên, chắc đã mang máng cảm thấy không nên thành kiến, vì thành kiến là vô lý. Trong đa số trường hợp (với Nửa đêm, Ngõ hẻm, Quê người…), quảng cáo đã làm được công việc tối thiểu là tóm tắt chính xác nội dung và phần nào phác hoạ cho thấy các yếu tố làm nên phong cách ngòi bút đã viết nên quyển sách. Nếu mấy câu viết về Hương cố nhân của Nguyễn Bính nên được coi là một thứ tài liệu văn học sử, thì những dòng quảng cáo cho Tuỳ bút thật đã chỉ ra được cốt cách Nguyễn Tuân, nó là hiệu quả mà giờ đây, phải nhiều bài phê bình dài dài mới làm nổi. Từ khoảng 1987 tới nay, sách ra càng nhiều, yêu cầu cạnh tranh càng lớn, thì người ta càng hay nghĩ tới quảng cáo. Tội tổ tông truyền của quảng cáo đã được xoá bỏ, không ai bĩu môi chê bai quảng cáo nữa.

Nhưng làm thế nào để quảng cáo thì không phải dễ. Bằng chứng là tất cả những cuốn sách được thừa nhận là nhỉnh hơn cả trong mấy năm gần đây chưa có cuốn nào ra đời với một lời quảng cáo thật đích đáng. Trên các phương tiện truyền thông, thỉnh thoảng người ta có nghe nhắc tới cuốn sách này cuốn sách khác, thì trong đa số trường hợp là liên quan đến sách thương mại, lời rao hàng đặc giọng chợ búa, nên khó lòng nói là những quảng cáo nghiêm chỉnh. Một lời quảng cáo trên báo thường dễ bị người ta kiểm tra lại (có phải vì thế mà những lời rao hàng lộ liễu không mấy khi thấy xuất hiện trên mặt báo chăng?). Nhưng chính bởi vậy báo chí vẫn là địa bàn rộng rãi để những người yêu văn học và giỏi quảng cáo thi thố tài năng. Nếu bạn là một người còn “nghiền” sự đọc sách, tôi cầu chúa cho bạn có được một tờ báo tin cậy, ở đó, mỗi cuốn sách quan trọng (cả sách trong nước lẫn sách dịch) đều được báo nhắc tới trong vài dòng quảng cáo được viết công phu. Đó vẫn chỉ là những nhận xét ngắn gọn, nhưng về sau bạn thường phải nhớ lại vì nó đã tìm ra những lời lẽ xác đáng để nói về quyển sách mà bạn đã đọc. Những lời rao hàng sáng giá ấy, tự chúng đã là những người môi giới đầu tiên. Và là một bộ phận của công việc xuất bản trong mỗi thời đại.

 

 

 

22. Một trăm thứ rượu một ngàn kiểu say

 

Ai đó đã nói: ngôn ngữ là một thứ đài kỷ niệm ghi lại những kinh nghiệm phong phú của mỗi dân tộc. Thứ đài vinh quang này trung lập, không bị độc chiếm, không phân cấp chia ô theo bất kỳ tiêu chuẩn nào (ví dụ, không có từ nào được coi như có ý nghĩa hơn, rồi nói tới nhiều hơn, từ nào dung tục tầm thường bị lép vế v.v..). Ngược lại, đấy là khu vực hoàn toàn bình đẳng; tình cảnh đôi khi giống như một bãi đất bao la, từ nào có sức lan ra đến đâu cứ việc bành trướng tới đó. Thành thử, chung quanh hai từ rượu và say, trong tiếng Việt người ta thấy có hàng loạt biến dạng, nẩy nở, sinh sôi. Nhân dịp ngày xuân, chúng tôi đã lục tìm mấy cuốn từ điển Việt, thử tra lại ý nghĩa của các từ ấy. Những tài liệu chính đã được sử dụng:

1. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, bản in ở Sài Gòn 1895 -1896, dưới đây gọi là bản A.

2. Việt Nam tự điển, do Hội Khai trí Tiến đức khởi thảo từ những năm 20, bản nói sau đây là bản in lại ở Paris năm 1954 gọi là bản B.

3. Từ điển Annam-Hán-Pháp của Gustave Hué in 1937 ở Phú Nghĩa, gọi là bản C.

4. Từ điển tiếng Việt, không đề tác giả, do L’ Asiathèque in ở Paris 1977, gọi là bản D.

I. Chung quanh từ rượu

Bản A định nghĩa : Rượu là “Thứ nước làm bằng trái cây hoặc chưng đạt bằng nếp gạo, có mùi cay nồng”.

Đây là một thứ định nghĩa kinh điển, các sách khác đều nói tương tự. Nhưng cái hay của một cuốn từ điển là chung quanh một từ cố định đó, ghi được thêm bao nhiêu từ ghép. Về mặt này, các bản chúng tôi có trong tay tài liệu khá phong phú. Ngoài rượu nếp, rượu sen, rượu chổi, rượu cúc, rượu nho v.v…, đọc bản A, người ta biết thêm còn có một thứ nữa là rượu đậu, tức thứ rượu nấu bằng đậu xanh; dọc bản D, thấy nói có rượu tần, rượu cất bằng cây tần cây đào. Về chất lượng rượu, người ta phân biệt rượu hàng là rượu bán rộng rãi, rượu hàng nàm (tiếng địa phương chăng? –  phổ biến hơn rượu ngọn) là rượu lứa đầu.

Ca dao có câu: Thách thêm một thúng xôi vò Một con lợn béo một vò rượu tăm, lại có câu: Đố ai chừa được rượu tăm Chừa ăn thuốc chín chừa nằm chung hơi. Vậy rượu tăm hẳn là rượu rất ngon rồi. Nhưng tại sao lại gọi là tăm? Các bản B, D đều nói đại ý đó là thứ rượu dùng tăm chấm vào rồi mút cũng say. Trong số những từ ghép có một thành tố là rượu, bản C nhắc tới bóng rượu, bầu rượu…, bản A kể ra mạnh rượu, bợm rượu, già rượu. Đặc biệt, còn thấy nói tới con rượu và cắt nghĩa vật ở trong mình kẻ say rượu. Chắc giữa con rượucon bạc có sự tương đồng trong cách cấu tạo? Nhưng con rượu ngày nay hầu như không thấy ai dùng.

II. Chung quanh từ say

Phần lớn các sách ghi say: “Bị rượu làm cho mê man” và chua thêm một loạt từ ghép có chữ say. ở đây nổi bật hai loại:

a) Loại từ chỉ trạng thái say vừa vừa, nửa tỉnh nửa say: đó là say ngà ngà, say chuếnh choáng. Bản A ghi thêm mấy từ địa phương cùng nghĩa: say xoàng xoàng, say ba chè, say xoàng ba

b) Loại thứ hai, nhiều hơn hàng chục lần, là những từ chỉ trạng thái rất say. Xin tạm kể như sau:

– Bản A: say chúi, say bò, say bết, say lết, say mèm, say mê mết, say sặc sụa, say vật vờ, say cúp, say cúp bình thiếc (hai từ cuối rõ là từ địa phương).

– Bản C : say đứ, say chèm, say nhèm, say gật gờ, say gật gưỡng, say khướt, say li bì, say tít, say lử, say lướt cò bợ, say tít cù lèo, say tít cung thang, say nhè, say nhẹt, say nhừ tử.

– Bản D: say ngất ngư, say tuý luý. Cũng có những khi người làm từ điển sau khi ghi một từ tìm cách giải thích tại sao từ đó lại được hình thành như vậy. Ví cụ Từ điển Việt Nam phổ thông in ở Sài Gòn 1952 sau chữ say mềm thích nghĩa “say (đến mức) người mềm ra”, sau say nhừ: “say như nhừ ra”. Những cách giải thích này không phải bao giờ cũng thuyết phục. Điều đáng nói là số lượng từ chỉ trạng thái rất say lại nhiều vô kể, nó chứng tỏ người say trên thế gian này không phải là ít!

c) Ghi chú về tửu tuý

 

*

*  *

 

Chẳng cứ trong giới thượng lưu, ngay với người bình dân, chữ tửu vẫn được dùng rộng rãi để chỉ rượu. Mã số từ ghép đi với  tửu cũng rất nhiều. Chỉ cần tìm tới một cuốn như Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, người ta sẽ bắt gặp tửu bảo, tửu chiến, tửu đảng, tửu lệnh v.v… Đáng lưu ý là để chỉ người say rượu (hoặc con rượu như trên đã kể), tiếng Hán Việt có nhiều từ khác nhau, mỗi từ một sắc thái: tửu hữu, tửu khách, tửu đồ, tửu quỷ, tửu ma, tửu thánh, tửu thần, tửu tiên…

Xét về mức độ phổ biến, thì tuý không bằng tửu. Song khối lượng từ ghép cũng khá đông đảo, nhất là những từ chỉ việc làm trong lúc say, vừa làm vừa say như tuý ngoạ, tuý nguyệt, hoặc những từ chỉ hành động sáng tạo trong cơn say như tuý bút, tuý mặc (đều có nghĩa chữa viết trong lúc say), tuý ca, tuý ngâm.

 

 

23. Cái lăng nhăng thứ hai hay là

những ý nghĩa mà các thi sĩ Việt Nam

đã tìm thấy ở rượu

Một trà một rượu một đàn bà

Ba cái lăng nhăng nó hại ta

Có thể coi mấy câu thơ ấy của Tú Xương là một cách hiểu phổ biến về rượu trong các nhà thơ cổ, từ thế kỷ XX về trước. Uống thì các vị vẫn uống, rồi lại liền ngay đấy cười cợt chế giễu cái sự ham hố buông thả của mình. (Say sưa nghĩ cũng hư được – Hư thời hư vậy, say thời cứ say – Tản Đà). Bảo các vị đạo đức giả e hơi quá! Chẳng qua thời buổi bấy giờ buộc người ta phải thế, phải ra mặt áp chế những ham muốn của mình, phải yên phận sống trong đạm bạc, khổ hạnh. Và để sống tự nhiên mà vẫn tận hưởng mọi niềm vui trần thế, người ta chỉ có cách phân thân nói một đàng làm một nẻo.

Nhưng cũng ngay từ thời phong kiến, trong thâm tâm nhiều thi sĩ rượu đã là một cái gì tốt đẹp hơn nhiều. Rượu là sinh thú của cuộc đời. Là niềm hoan lạc. Là lý do khiến cho đời đáng sống, cũng tức là cái kỷ niệm còn sót lại của một linh hồn sau quãng đời trầm luân, khổ ải. Về phương diện này, bài thơ sau đây (mà tương truyền là của Phạm Thái) đã là một thứ tuyên ngôn:

Sống ở dương gian đánh chén nhè

Thác về âm phủ cắp kè kè

Diêm Vương phán hỏi mang gì đấy

– Be!

Bước sang thời hiện đại, các thú lăng nhăng ngày một nhiều, song đóng vai trò chủ đạo, vẫn là ba món Tú Xương đáng kể, và rượu rõ ra là một món vừa thông dụng, vừa cao quý. Trong số các thi sĩ Việt Nam, Tản Đà có lẽ gần với Lý Bạch hơn cả. Với ông, rượu là bè bạn, là môi sinh. Ông ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, viết báo khi say và tiếp khách ở toà soạn bằng cách mua thức nhắm về làm với nhau một bữa rượu. Vậy mà ông vẫn viết đều đều, sức vóc ông trong nghề viết là sức vóc một đại lực sĩ, ngoài thơ – truyện, ký ông viết cũng tài, mà làm báo cũng một tay bợm! Những bài thơ sảng khoái ca tụng rượu nhiều lần xuất hiện dưới ngòi bút Tản Đà đánh dấu thời kỳ người ta không còn cảm thấy tội lỗi khi hưởng thụ, cũng không phải phân thân nói một đàng làm một nẻo nữa. Có điều thú vị là tự mình uống nhiều đã đành. Tản Đà còn muốn mọi người cùng uống:

Yêu cầu cho khắp mọi nhà

Rượu ty bãi hết rượu ta cất tràn

Tránh cho dân nỗi lầm than

Bã chôn, men giấu, nhà đoan phạt bừa

Tha hồ rượu sớm trà trưa

Nghiêng trai dốc chén say sưa tối ngày.

ở Lưu Trọng Lư, rượu tượng trưng cho cuộc sống phóng túng của một lãng tử. Trong bài thơ nổi tiếng mang tên Giang hồ có tới mấy lần ông nhắc đến rượu mà lần nào cũng chứa chan tình cảm:

– Mời anh cạn hết chén này

Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn

– Để lòng với rượu cùng say

– Giờ này còn của đôi ta

Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người.

Trần Huyền Trân làm thơ không nhiều, nhưng có những bài như là rưng rưng trong hơi rượu. Nhà thơ có cái bút danh khăn yếm (chữ của Tô Hoài) từng có những cuộc uống rượu ly biệt với Tản Đà và Lê Văn Trương. Thơ ra đời trong những lúc ấy. Khi mời mọc nhau, ai cũng muốn uống thật nhiều, vì thấy bao nhiêu cũng là không đủ.

Cụ hâm rượu nữa đi thôi

Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu

Rồi lên ta uống với nhau

Rót đau lòng ấy vào đau lòng này.

Khi sảng khoái, nao nức không cần đến rượu bởi biết lúc nào uống cũng kịp, còn uống với nhau vào những dịp khác.

Thôi đợi mùa nao trái chín lành

Tóc này về rúc với râu anh

Bấy giờ hắt toẹt ba chum rượu

Cười kể tâm tình thuở tóc xanh

Tóm lại, với Trần Huyền Trân, rượu là kỷ niệm tình nghĩa bạn bè, là chất men nồng mang lại chút ấm áp trong cuộc đời lạnh giá.

Với một thi sĩ khác là Thâm Tâm thì còn hơn thế, con người càng uống càng tỉnh này nhìn cuộc đời cái gì cũng có liên quan tới rượu. Với ông, rượu trở nên một thứ ngôn ngữ thường trực. Ông nhìn mưa bay bằng con mắt ấy:

Ngoài phố mưa bay xuân bốc rượu

Nhìn cả cuộc đời thoáng qua bằng con mắt ấy:

Người đi? ừ nhỉ, người đi thực

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say

Hầu như toàn bộ thơ Thâm Tâm là tinh hoa chắt ra từ “Cái sống ngang tàng quen bốc men”. Thơ viết bằng rượu. Rượu làm nên thơ. Còn có vinh dự nào hơn?

 

 

24. người kỹ nữ, một phép thử độc địa

 

Sự tồn tại của nghề kỹ nữ là cả một tệ nạn xã hội. Song từ xưa tới nay, loại tác phẩm khai thác đề tài này lại khá nhiều, tới mức nếu vứt bỏ chúng đi, người ta không khỏi làm nghèo cái di sản văn học do các thế hệ trước để lại.

 

Xét cho thật kỹ các từ ả đào, cô đầu, kỹ nữ, gái làng chơi, gái giang hồ, gái làm tiền, gái mại dâm, nhà thổ, đĩ điễm…. vẫn có sự khác nhau chút ít trong ý nghĩa và trong sắc thái tình cảm.

Song dẫu sao giữa những người này vẫn có một nét chung nào đó – đại khái đấy là những người đàn bà không thuộc về một người mà thuộc về nhiều người, ai có tiền là có quyền làm chủ. Họ phải lấy câu ca tiếng hát, và trong nhiều trường hợp cả cơ thể họ ra chiều khách. Niềm vui sống ở đấy mà phương tiện sinh sống cũng dựa cả vào đấy.

Vì gần như thời nào cũng có những người làm cái nghề đặc biệt ấy, nên lẽ tự nhiên là sáng tác văn học viết về họ cũng nhiều, càng sang thời hiện đại càng nhiều. Và cùng với thời gian, việc mô tả thế giới của những người đàn bà này ngày càng kỹ lưỡng hơn, sâu sắc hơn. Các nhà văn cao sáng, những người làm nên vẻ vang cho các nền văn học lớn trên thế giới, như Tolstoy, Dostoievski ở Nga; Balzac, Hugo… ở Pháp, ít nhiều, trong các tiểu thuyết, đều có đả động tới đám kỹ nữ này. Trong văn học Trung Quốc, thơ viết về thân phận “chị em” đã nhiều, tiểu thuyết viết về cuộc sống ở các xóm bình khang lại càng lắm, một người bình thường có thể đọc cả đời không xuể. Điều đó có ảnh hưởng đến Việt Nam. Tác phẩm lớn nhất của văn học ta, thiên truyện phổ biến khắp chợ cùng quê – ý chúng tôi muốn nói đến Truyện Kiều – là câu chuyện xoay quanh đời một cô gái thanh lâu hai lượt thanh y hai lần, và bao nước mắt đã nhỏ vì cô điếm thông minh tài hoa đó. Đến đầu thế kỷ XX, khi văn xuôi quốc ngữ phát triển, và việc viết văn làm thơ không phải là món trà dư tửu hậu hoặc một phen bộc bạch tâm sự của mấy vị nhà nho hay chữ chờ đi làm quan, mà là một nghề hẳn hoi, thì tác phẩm viết về cuộc đời các cô điếm càng tới tấp xuất hiện. Tại sao? Người viết văn làm thơ phần lớn cũng là du khách, khách thanh lịch, khi quá mệt mỏi hoặc lúc buồn bã chán chường không tìm thấy nghĩa lý cuộc đời, thường cũng tìm tới chị em để giải khuây, đấy là một lẽ. Song cái chính là trong khi tiếp xúc, nhiều người viết văn lại tìm thấy trong cuộc sống của chị em những khía cạnh gần gũi với thân phận mình. Cũng một lứa bên trời lận đận, câu thơ ngày xưa được họ nhập tâm như lời thốt lên từ đáy lòng. Cả bài thơ Lời kỹ nữ của Xuân Diệu không gì khác cũng là tâm sự của chính nhà thơ khi thấy cuộc đời ghê rợn lại quá lạnh giá, mà mình thì hoàn toàn đơn độc. Theo các nhà thơ, đấy cũng là cái tâm trạng thường xuyên đến với những người làm nghề bán trôn nuôi miệng mà lại chưa chịu hoàn toàn hư hỏng. Cũng nên nói ngay là mặc dù cùng một đối tượng miêu tả, nhưng mỗi nhà văn – ở đây chúng tôi chỉ dừng lại ở các cây bút hành nghề trước 1945 – vẫn nhìn đám đĩ điếm ấy một khác, phù hợp với quan niệm của nhà văn đó về con nguời nói chung. Có lối lý tưởng hoá người đàn bà giang hồ của nhóm Tự lực (trường hợp tiểu thuyết Đời mau gió) nhưng lại có lối trình bày hiện thực trắng trợn, tàn nhẫn của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Trong Người ngựa và ngựa người, ả giang hồ ế hàng này hiện ra cùng quẫn nhếch nhác rồi hèn hạ, rồi giả dối, như nhiều người đời khác, vẫn thường được Nguyễn Công Hoan nói tới một cách khinh rẻ (chữ người ngựa ở đây để chỉ anh phu xe, còn chữ ngựa người để chỉ người đàn bà bất hạnh ấy). Vũ Trọng Phụng cũng không hề gượng nhẹ khi phải phác ra hình ảnh những nhà lục xì và những người làm đĩ. Rất tự nhiên, nhà văn họ Vũ lấy họ ra để chứng minh cho căn tính dâm của con người nói chung. Đời ở tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng bao giờ cũng bẩn, nên chi trong các ngôi nhà mà đám đàn bà này hành nghề, đời càng hiện lên nhớp nháp, nhầy nhụa.

Tuy nhiên trong văn học không chỉ duy nhất có hai cách nhìn như vậy. Ở giữa  hai thái cực trên – thi vị hoá và tô đen bôi bẩn – vẫn còn thấy có những trường hợp loại nhân vật phụ nữ này được miêu tả với chút tình cảm dịu dàng, có đau xót nhưng lại có thông cảm.

1. Trong Thề non nước của Tản Đà, cô đầu Vân Anh vốn là con nhà có học, biết chữ nho, có thể làm thơ xướng hoạ với khách (bản thân bài thơ Thề non nước được Tản Đà kể như là do hai người nối tiếp nhau đặt lời mà thành). Cách cư xử của Vân Anh thì tinh tế, ý nhị khiến người có học cũng phải vì nể. Các tài liệu văn học sử còn ghi rõ chính bà thân sinh ra thi sĩ Tản Đà cũng là một cô đầu. Và cái cốt cách người mẹ như còn phảng phất trong hơi thơ của ông ấm Hiếu. Không thể tưởng tượng ra đời sống văn học đầu thế kỷ nếu thiếu đi ngòi bút Tản Đà tài hoa duyên dáng!

2. Chỉ có một lần nhà văn Thạch Lam vẽ nên cái cảnh nhà săm trong thiên truyện Tối ba mươi. Có điều, nhân vật chính của thiên truyện này lại là hai cô gái có tâm hồn thanh khiết như xưa nay các nhân vật của Thạch Lam vốn vậy. Trong cái Tối ba mươi ấy, Liên và Huệ – tên hai cô gái phải rơi vào cảnh thanh lâu – vẫn không quên thắp hương bày bàn thờ gia tiên rồi cùng nhau yên lặng nhớ lại từng kỷ niệm êm đềm trong quãng đời ngây thơ lúc nhỏ. Nên nhớ rằng ở Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng, nhiều nhân vật có tiền tài, có địa vị vẫn hiện ra bẩn thỉu vụ lợi, nhiều nhân vật mang tiếng là có tri thức mà suy nghĩ và cử chỉ thì lại đặc lưu manh. Ngược lại ở hai cô gái điếm của Thạch Lam, vẫn có sự thành kính với đời mà chỉ có những con nhà gia giáo mới có. Tóm lại họ vẫn là những con người cao quý.

3. Nhân vật trong các truyện ngắn truyện vừa Tô Hoài viết trước năm 1945 thường là đám dân nghèo chuyên dệt cửi xeo giấy, khá hơn một chút thì có mấy anh giáo kiết gõ đầu trẻ trong làng. Tương ứng với họ, là đám cô đầu phố phủ còn nguyên chất ngoại thành. Như Tô Hoài viết trong Quê người, những cô đào rượu  ấy phải đi vắng khách lại đi “ra đồng bắt ốc hái rau muống cấy thuê”. Không ai trong họ có một tính cách rõ rệt, chỉ nghĩ đến họ đã thấy thương hại.

4. Trường hợp của các nhân vật Nguyễn Tuân thì lại hoàn toàn khác. Trong nhiều thiên tuỳ bút, Nguyễn Tuân từng công khai kể lại những ngày ông lăn lộn ở các xóm bình khang mà ông gọi là những ngày phóng túng hình hài, với bao chi tiết vừa đau xót vừa tức cười. Vào với các xóm cô đầu ở bất cứ đâu, ông cũng ngang ngược thả sức quấy đảo trêu chọc mọi người. Song thật sự chàng Nguyễn cũng là một người đối xử với chị em hết sức có tình. Nhà thơ Hoàng Trung Thông kể rằng có lần nghe tin một người cô đầu quen biết cũ qua đời, Nguyễn Tuân đã ứa nước mắt.

Đời Nguyễn nhiều lần ứa nước mắt khóc như thế.

Trong Chiếc lư đồng mắt cua có một nhân vật cô đầu tên là Tâm. Theo như cách kể của tác giả thì Tâm là một người rất thạo, chính cô cũng nhận là cô “gần như thập thành” lại “hơi du côn”, “đã có tai tiếng là đi vụt thiên hạ dữ lắm, không sẵn tiền thì không nên quen con Tâm”. Thôi thì Tâm cũng đủ vành đủ vẻ khinh bạc vênh váo trắng trợn, tóm lại là có đủ những đức tính mà Nguyễn Tuân vẫn phô ra với đời để chứng tỏ là bất cần đời. Có điều, cũng như Nguyễn Tuân, Tâm lại là  dân say nghề, một tay cự phách trong nghề, tiếng hát, nói như cách nói  của thời ấy,  rất nhiều tinh thần, khiến cho những người sành sỏi cũng phải bái phục. Mặt khác Tâm là người sống có tình có lý, đã định làm cái gì là làm bằng được, đàng hoàng khảng khái.

Quả thật Nguyễn Tuân đã soi vào tâm mình để thấy bóng dáng của Tâm, và mượn Tâm để hình dung ra chính mình. Đối với một nhà văn, như vậy là nhân vật cô đầu Tâm đã ở vào chỗ tột cùng của sự kính trọng.

Qua truờng hợp của những Tản Đà, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng… nói ở trên, có thể rút ra một nhận xét đơn giản: Nhà văn thế nào thì nhân vật gái giang hồ được họ miêu tả cũng na ná như vậy.

Trong văn học, người kỹ nữ vẫn là một phép thử.

Như trong đời sống

 

 

25. ca tụng ả đào

 

Tiệc rượu không chỉ là nơi để người ta ăn mà nhiều khi trước tiên là chỗ để người ta nói. Bữa ấy, nhân có chút nhuận bút còm, nhà văn Bính mời thêm hoạ sĩ Giáp, nhà thơ Canh, nhà nghiên cứu nghệ thuật Quý, nhà sử học Kỷ… đến để cùng tìm cách nhờ trợ giúp của mấy lon bia tiêu thụ cho hết một cỗ lòng, nhân đó bàn luận sự đời. Không biết tự lúc nào, câu chuyện của họ chuyển sang đề tài thú chơi của người xưa và vào lúc đã say, tiếng nói của họ xen lẫn vào nhau, như trong bản hoà tấu, mỗi người một giọng…

– Tôi không muốn là kẻ bám càng, thấy ai khen cái gì cũng hùa theo khen lấy được, song tôi cứ nghĩ hát ả đào lạ thật, giá kể có ai bây giờ mở một thứ dịch vụ ả đào – mà là ả đào thứ thiệt – chắc tôi cũng phải cố viết mấy bài báo linh tinh lấy mấy đồng, mà mua vé vào … tom chát một bữa. Không khí đầm ấm này, nhạc quyến rũ này, và những giọng hát sang sảng như giọng bà Hồ, bà Phúc này. Một vài chục năm nữa, nước mình giàu lên, chắc có người nghĩ ra chuyện làm một thứ bảo tàng âm nhạc, trong đó có chỗ chuyên lưu giữ các giọng hát quý, một thứ ngân hàng gồm toàn những giọng vàng trong lịch sử. ở cái ngân hàng giọng đó, tôi ngờ cùng với giọng Khánh Ly, Bảo Yến, rồi Thanh Lam, Mỹ Linh… hoặc những giọng ca mà chúng mình từng say mê những năm nằm hầm Trường Sơn như Bích Liên, Thanh Huyền v.v… thì những băng từ ghi giọng bà Phúc, bà Hồ, giọng Chu Thị Bốn, Chu Thị Năm, giọng  Mộng Hoàn v.v.. phải được đặt ở chỗ danh dự.

– Anh Bính mở đầu thế cũng được đấy. Nhưng thôi, hãy nới tới những chuyện liên quan đến nghề viết văn. Hẳn anh còn nhớ bài viết của Nguyễn Tuân mang tên Một đêm họp đưa ma Phụng, trong đó kể chuyện mấy văn hữu, trước khi đến ngả mũ cúi đầu trước mộ tác giả Số đỏ, phải sang bên sông làm một chầu hát cái đã. Nhìn bằng con mắt tục thì như thế là đổ đốn chứ gì, kéo nhau dong chơi cả đêm để rồi hôm sau đi đưa ma, nghĩ thật dở quá! Song không rõ các anh ra sao chứ riêng tôi đọc đoạn văn ấy, vẫn thấy rất tự nhiên.

– ý anh định nói nhà trò là nơi con người bấy giờ thường tìm tới, mỗi khi cảm thấy cuộc đời này quá lạnh lẽo chứ gì? Đồng ý! Đây tôi xin bổ sung thêm một ý nữa về cái sự sang trọng của các nhà trò thời xưa. Hẳn các anh còn nhớ trong Lều chõng, Ngô Tất Tố cũng đã không giấu diếm rằng mình mê hát ả đào và sự thực là ông đã cãi rất hăng, cãi thật lực cho việc xuống xóm. Với các nhà nho như Ngô Tất Tố, không phải có sự đối lập, ai đã dềnh dang chơi bời thì đừng tính chuyện văn chương, còn người chữ nghĩa bề bề thì không hề lai vãng  tới phố Hàng Lờ bao giờ cả. Mà ngược lại, trong Lều chõng, người hay chữ đệ nhất là Đào Vân Hạc cũng là kẻ ham hố liều lĩnh, giữa hai kỳ thi vẫn líp chặt ở chỗ đào Cúc, đào Phượng. Lạ cái nữa theo Ngô Tất Tố cho biết, chính các nhà trò cũng thích dụ bằng được mấy chàng hay chữ vào cuộc, thì mới hả dạ. Ra giữa chốn lầu hồng, người ta vẫn lấy chữ nghĩa để đánh giá nhau, thú vị thế chứ!

– Thế tôi thử hỏi anh Kỷ với các anh, chúng ta cắt nghĩa thế nào về chuyện trong các bài ca trù thường có pha thêm vài câu chữ Hán khi ở khổ đầu, khi ở khổ giữa? Một thứ Hán Việt giao duyên dăng dăng ra thế, kể cũng là chuyện đáng nghĩ phải không nào? Theo tôi, nội một điều đó cho thấy hát ả đào là thú chơi của đám nho sĩ nhà nòi. Các cụ cũng thích khoe. Nhưng khoe đây là khoe sự tài hoa, tao nhã, lịch thiệp. Khoe tài khoe giỏi nên không thấy chướng như bọn giàu xổi khoe của. Mà những đoạn các cụ mượn chén “tế” bọn phàm phu tục tử thì cũng toàn những đoạn chửi độc cả.

– Để tôi xin bổ sung vài câu về chuyện anh Giáp vừa nêu. Xưa kia, nhà trò phổ biến thật, nhưng không phải ở đó cá mè một lứa, ngược lại các nhân vật có thể gọi là đứng được ít nhiều đều có dính dáng đến chữ nghĩa. Trong Chiếc lư đồng mắt cua của Nguyễn Tuân này, rồi trong Thề non nước của Tản Đà này…

– Hình như nhân vật người khách trong Thề non nước mê Vân Anh là từ lúc biết rằng cô này giỏi chữ Hán?

– Chứ còn gì nữa! ở chỗ lầu xanh lầu hồng ấy, có được tiếng đàn câu hát chưa đủ, lại phải uyên bác nữa mới chết người chứ! Hình như trong đầu óc các cụ nhà nho xưa, nhân vật nhà trò tiêu biểu phải là loại con nhà gia giáo, chẳng qua sa cơ lỡ vận chịu rơi xuống cảnh bùn nhơ, mà lúc nào cũng ao ước hoàn lương, ao ước trở lại với những ngày xưa gia phong, nền nếp.

– Nghĩa là trong nhân vật những người con gái nhà trò con hát này, các cụ tìm thấy sự phóng chiếu của hình ảnh chính mình?

– Có thể thế lắm. Nhưng thôi, trở lại với cái ý ban đầu của anh Bính: sự trái tính trái nết của một số người trong chúng ta bây giờ là sự say mê cái cổ. Không, tôi không thấy có gì phải xấu hổ cả. Trong các món văn hoá quà vặt thời nay, quà Âu quà Mỹ có cái ngon riêng của nó, nhưng tôi tưởng chuyện các cụ xưa cũng còn là món quà sang, mới nhắc lại đã thấy thơm tho mồm miệng. Được la cà vào đây mà tận hưởng, hẳn vui chán, phải không các bác? Chỗ anh Giáp vừa làm quyển sách về Nguyễn Tuân hở? Anh nào biên tập thật đáng đánh đòn quá, lẽ ra phải cố mà chạy lấy một bài Nguyễn Tuân và nghề hát cô đầu mới  phải!

Tiệc rượu ( = tiệc nói) đến đây chưa dứt. Trong lúc mải bàn về thú cô đầu, mấy cái mồm ngồi quanh cỗ lòng hôm ấy còn miên man tán sang con người  trò chơi ở các nhà nho và thử đố nhau về cái thanh cái tục trong nghề chơi của người xưa. Băng ghi âm của chúng tôi còn ghi đủ, hẹn có dịp gỡ băng hầu các bạn

 

26. Độc thoại về bút tre

 

Ngày xuân, trở lại với một hiện tượng văn nghệ độc đáo, nhân đó liên hệ với một số khía cạnh khó khăn trong đời sống sáng tác hiện thời.

 

Nói Vũ là một nhà phê bình văn học cũng không hoàn toàn đúng hẳn! Do những đặc điểm riêng của sự phát triển văn học nước ta, người viết phê bình chưa mấy ai thành nghề, tức là chưa có ai bằng ngòi bút mà kiếm được tiền để sống ở nghề này cả. Trong sổ lĩnh lương nhà nước, Vũ có một chức danh khác. Nhưng tai vạ là ở chỗ người bạn này của tôi rất tha thiết với văn chương chữ nghĩa và mua dây buộc mình, cứ để hết vui buồn vào những chuyện thời sự của giới sáng tác. Chẳng hạn như cái tình trạng gần đây – sách ra nhiều, ra ồ ạt mà chả thấy có quyển nào nổi hẳn lên, chả quyển nào vượt qua con số in 1000 bản để trở thành sách được bàn dân thiên hạ cùng tìm đọc và buộc người ta phải kháo nhau trong công chuyện hàng ngày – điều ấy làm Vũ bực lắm. Gặp tôi đâu là anh túm lấy, bàn loạn cả lên. Rằng phải cải tạo giới xuất bản (!). Rằng thay đổi cách tuyên truyền của báo chí với đời sống văn chương. Và rộng hơn, anh đề ra hàng loạt biện pháp nhằm giúp cho sự sản xuất và tiêu thụ văn chương được phát triển trong thời gian tới. Tóm lại, toàn chuyện trên trời dưới bể, chả ai khiến anh dúng mồm vào, anh cũng cứ đòi tham dự. Trên cái đà suy nghĩ ấy của mình, Vũ chợt chạm tới cái hiện tượng đã có từ lâu, đã thành giai thoại trong làng văn của mình là Bút Tre. Hình như đây là một đầu mối của nhiều chuyện Vũ đang quan tâm. Thế là, như bắt được của, bất cần thơ Bút Tre thật ra sao, anh cứ đè những câu thơ Bút Tre được truyền tụng ra mà luận bàn. Và lần nào gặp anh, bên hàng chè chén hai trăm một chén cũng có, mà trong những cuộc chiêu đãi vài trăm ngàn cũng có, tôi cũng đều được (hay phải) nghe Vũ nói về Bút Tre. Sổ tay tôi cứ thế mà dày mãi lên về những nhận xét của Vũ về Bút Tre, dưới đây chỉ là một phần nhỏ.

– Quả thật, tôi không có ý định chế giễu hay chê bài một ai cả. Song nghĩ đi nghĩ lại cứ thấy đây là hiện tượng độc đáo của văn chương Việt Nam hiện thời. Nói riêng một chuyện là nghe thấy tên Bút Tre, người ta hình dung ra ngay một con người, một cách sống, cách làm thơ. Có thể nói Bút Tre cười vào mũi những nhân vật muốn lập danh trong văn chương, mà không sao thực hiện nổi ý định.

– ở đây, tôi không dám nói phong cách theo nghĩa lý luận, mà cũng là nghĩa thật khoa học của từ ấy. Nhưng nếu hiểu phong cách ở dạng thô thiển, phong cách có thể đồng thời là một cá tính, cá tật, chỉ có điều nó giúp người ta nhận diện tác giả, tức để cho người ta đọc tác phẩm biết ngay ai viết ra nó, thì phải nhận Bút Tre có phong cách đấy chứ.

Hoan hô đại tướng Võ Nguyên

Giáp ta thắng trận Điện Biên lẫy lừng

– Hôm nay trời nhẹ mây cao

Anh Ga-ga-rỉn bay vào vũ tru

– Trông xa một đống đen sì

Đến gần mới biết ấy thì là than.

Nói một cách thô thiển thì từ những câu thơ ấy, thấy toát ra một thứ “mùi vị” riêng, nó là một dấu hiệu để người ta biết ngay là của Bút Tre chứ không thể của ai khác.

Còn như từ góc độ văn học sử mà xét, lại thấy sáng tác của Bút Tre rất gần truyện nôm của các cụ ngày xưa. Thế anh có biết tại sao những Hoàng Trìu, Thạch Sanh, Phạm Tải Ngọc Hoa được viết bằng thể lục bát? Không chứ gì? Theo thiển ý của tôi, thì mọi chuyện khá đơn giản. Bởi chỉ tại trong cái thể ấy, tác phẩm mới tồn tại trong trí nhớ người ta. Chứ hồi ấy đâu đã có máy để lưu giữ văn bản? Vần điệu phải có mặt để góp phần vào việc phổ cập tác phẩm, vần điệu là một công cụ đắc lực phục vụ cho nội dung, nó làm cho nội dung trở nên cố định. ở Bút Tre cũng vậy. Nói đến thơ Bút Tre mà không nói đến hạ vần lung tung, ghép vần lấy được, thì đâu còn là Bút Tre nữa?! Bút Tre tồn tại như một trong những câu thơ trái khoáy nhất của Nguyễn Đình Chiểu trong Lục Vân Tiên: “Vợ Tiên là Trực chị dâu” vĩnh viễn tồn tại, và hễ nói tới tác phẩm ấy của cụ Đồ Chiểu là người ta phải nhớ tới câu thơ ấy!

Nhân đây, cũng phải nói thêm một khía cạnh mà tôi coi là sự lương thiện của Bút Tre. Ông không giả đò uốn éo tìm tòi với lại sáng tạo. Mà dường như ông cũng không nghĩ mình là nghệ sĩ nữa. Ông hiểu mình làm tuyên truyền, vậy cốt sao tuyên truyền cho được rõ ràng, thế là được. Sở dĩ tôi thú cái thái độ sòng phẳng này, bởi cái chết của nhiều cây bút ở ta là sự dở giăng dở đèn, nghệ sĩ không phải mà tuyên truyền cũng ngô ngọng không xong, thực bụng không định lừa mình lừa bạn đọc, nhưng rút cục, lại để cho người ta có cảm tưởng như vậy.

– Nhưng mà thôi, hãy nói ít chuyện thời sự. Chắc anh cũng thừa biết sở dĩ dạo này, tôi hay bị ám ảnh bởi cái ông Bút Tre ấy, là do nhìn vào thực tế sáng tác, cứ thấy những điểm bất công. Người lơ đễnh đến đâu cũng dễ dàng nhận thấy là đang tồn tại hai hiện tượng song song. Một đằng là sự dồi dào về số lượng sách in ra. Đằng kia là những tản mạn khó khăn trong việc đưa sáng tác đến với người đọc tới mức giá hỏi một trăm bạn đọc khác nhau về 100 nhà văn hay 100 cuốn sách yêu thích thì không chừng người ta sẽ được 100 câu trả lời khác nhau. Tức những cái viết ra, toàn hàng tầm tầm, chả có ai, chả có cuốn nào nổi lên tới mức quy tụ được dư luận! ấy, vì thế, tôi cho là nên nghiên cứu thật kỹ hiện tượng Bút Tre, để tìm ra  những quy luật về sự nổi tiếng ở ta hiện nay. Trên một số báo Văn hoá ra gần đây, chả ai tính chuyện sáng tác nữa, mà chỉ lo làm best seller, cốt để ghi được một dấu ấn nào đó trong tâm trí bạn đọc. Nếu đúng như thế thì phải nhận chính Bút Tre đã đi tiên phong theo một phương hướng hiện đại… Thôi, tán ra thì không biết đến đâu là cùng, quy lại chỉ thấy ít ra hiện tượng Bút Tre cũng minh hoạ cho cái nhận xét đáng gọi là tinh đời sau đây của Oscar Wilde: “Trên thế gian này chỉ có một điều tồi tệ hơn việc bị người đời đàm tiếu, đó là chả được ai nhắc đến”.

 

 

27. Họ không phải những người phụ bạc

 

Các nhà thơ thường mang tiếng là giỏi quyến rũ, giỏi tán gái và những tiếng tăm kiểu đó không hoàn toàn oan uổng. Nhưng cũng không ít người trong họ bị người tình phụ bạc, hoặc vì lý do nào đó, những người tình đó quyết dứt áo ra đi. Trở thành kẻ lép vế, tuy trong lòng vẫn còn nguyên tình cảm với người yêu của mình, nhưng họ đành gạt nước mắt chia tay. Trạng thái ấy là nguồn cảm xúc để họ sáng tạo nên những bài thơ đầy xúc động. Sau đây là hai ví dụ:

Trường hợp Xuân Diệu

Chúng ta biết trước Cách mạng, chữ em trong thơ Xuân Diệu chỉ để dành cho những người mà nhà thơ yêu. Em đó là người yêu mà chưa là vợ. Nhưng từ thuở viết Riêng chung, Một khối hồng, Tôi giàu đôi mắt… chữ em này nhiều phen đã đổi nghĩa, người con gái trong thơ Xuân Diệu đã có vai mới: vai người vợ. Anh thương em khi ngủ… Anh đợi  em về ăn cơm, ngay tên một số bài thơ đã nói lên điều đó. Nhưng rồi người ấy cũng không ở mãi với Xuân Diệu. Cuộc chia tay đã tới, xót xa cho cả hai bên. Xuân Diệu đã làm một số bài thơ ghi lại nỗi đau đớn của mình trong giờ phút ấy. Đáng kể nhất là Biết tạc đâu ra em của anhChầm chậm đừng quên… Hai bài này làm từ lâu, nhưng mãi năm 1982, mới công bố trong Thanh ca.

Biết tạc đâu ra em của anh có những đoạn trong đó người làm thơ như chết lặng đi trước cuộc vĩnh biệt sắp sửa:

Anh lấy thịt xương đâu chứa đầy mộng ước

Anh lấy gì biến hoá để thành em?

Anh bóp vụn ngày, anh xé nát đêm

Anh vá víu những người trên trái đất

Người ta có thể vô cùng xinh đẹp

Có thể thông minh, có thể rạng ngời

Có thể yêu anh đi nữa – em ơi

Anh không thể kiếm tìm em đâu cả!

Bài Chầm chậm đừng quên… sau khi nhắc lại những kỷ niệm cũ, chốt lại ở cái ý: tình yêu như sợi dây trói đã dính vào da thịt cả hai, nay dứt ra, trong sợi dây có dính cả máu và nước mắt.

Muôn sợi ngàn dây đã thắt nhau

Em ơi chầm chậm tháo gì mau

Tháo dây, rứt cả vào da thịt

Anh biết bao giờ mới hết đau

Dây buộc đời ta lại với đời

Gỡ dây, gỡ cả cuộc đời thôi

– Chớ quên hoa duối, hoa sim dại

Em hỡi! Đừng quên hoa anh ơi

Trên đây chỉ là những đoạn trích. Bạn đọc có thể đọc cả hai bài thơ trong Tuyển tập Xuân Diệu, tập I, các trang 430 và 434.

Trường hợp Chế Lan Viên

Trước khi lấy Vũ Thị Thường, Chế Lan Viên đã có một đời vợ. Người vợ này từng là người tình say đắm của ông lúc trẻ. Bãi biển Quy Nhơn là nơi diễn ra mối tình đẹp đẽ đó. Trải qua kháng chiến chống Pháp, tới hoà bình lập lại, khi nhà thơ sang Trung Quốc chữa bệnh, thì ở nhà “có chuyện”. Điều không muốn đã xảy ra, cuộc chia tay trở thành không tránh khỏi. Nhưng trong lòng Chế Lan Viên vẫn bồi hồi bao kỷ niệm, “ông vua tứ tuyệt” Chế Lan Viên đã đúc nỗi đau và nước mắt thành một bài thơ mà khoảng 1968, người viết bài này được biết qua lời kể của Lưu Quang Vũ.

Tới chỗ đông người anh biệt em

Thôi đừng ngoái lại để anh nhìn

Mày ai trăng mới in ngần thật

Dao khía lòng anh trăng của em.

Tiếc rằng, bài thơ chưa công bố bao giờ, kể cả trong Tuyển tập Chế Lan Viên. Và trong một lần nói chuyện với chúng tôi, bà Vũ Thị Thường nói chính bà cũng không biết, nên ở đây, chỉ ghi lại theo trí nhớ.

 

 

 

28. Đã có bao nhiêu cách nói để chỉ

những mối tình vụng trộm?

  • · Chữ nghĩa không vô tư
  • · Chữ nghĩa đồng loã với chúng ta trong việc che giấu cho những cuộc tình vụng trộm
  • · Nhưng rồi chữ nghĩa cũng đã lộ mặt.

 

Tôi chắp tay tôi lạy bạn đừng cười

Lòng tôi không giăng gió nhưng tôi

gặp phải người gió giăng.

Khi thốt lên lời than thở đau xót đó, nhân vật Xuý Vân trong vở chèo cùng tên đang mắc kẹt trong cuộc đi lại vụng trộm với Trần Phương. Nàng cố né tránh không gọi đích danh hành động của mình mà chỉ nói xa nói xôi. Có điều, tất cả chúng ta đều hiểu.

Giống như Xuý Vân – không thích gọi sự vật bằng cái tên hèm, tên cúng cơm của nó – dân gian ta đã đặt ra hàng loạt từ để chỉ hành động ngoại tình. Xin tạm liệt kê (chắc chắn là còn chưa đủ): Giăng gió, dăng dện, dan díu, léng phéng, lòng thòng, lăng nhăng, thậm thụt… Danh sách này thỉnh thoảng còn được bổ sung thêm: bí bơ, nham nhở, túng tắng… Không có từ điển nào kịp theo sát các sự chuyển nghĩa đó, nhưng đặt trong văn cảnh, các từ đó vẫn có nghĩa xác định.

Chỗ đánh giá của các từ này là chúng làm rõ được cái ý ngoại tình là hành động không hay, không chính đáng, không đâu vào đâu, khiến người ta phải giấu diếm, thực tế là nhiều khi đã “vào cuộc” rồi đành nhắm mắt đưa chân, không biết kết cục sao nữa.

Trong một số trường hợp khác, không cần gói gọn trong việc ấy trong một từ, mà có thể dùng cả cụm từ dài, người ta nói: đi ngang về tắt, (ông) ăn chả (bà) ăn nem… Từ khi tiếp xúc với Tây phương, hai chữ mọc sừng cũng rất phổ biến.

Mỗi cách nói đều đã bao hàm sự đánh giá bên trong.

Ví như gần đây, trong hàng ngũ viên chức nhà nước, thường có câu đùa vợ là cơm bồ là phở. Sự ví von sở dĩ được ưa chuộng có lẽ là vì:

a) Nó ví ngoại tình với ăn uống, nghĩa là một bản năng không dễ gạt bỏ.

b) Nó chỉ rõ ngoại tình là chuyện thêm thắt, phụ trợ, nhưng lại thường ngon lành, lạ miệng, nên đầy sức quyến rũ.

Cuối cùng, trở lại với chữ ngoại tình. Nên nhớ rằng ở chữ Hán, ngoại ở đây là để đối lập với chính, cứ cái gì mang tính cách không chính thức, lăng nhăng, tào lao, xằng xịt thì thường được thêm chữ ngoại ở phía trước.

Đạo có chính đạo và ngoại đạo.

Sử có chính sử và ngoại sử (tác phẩm Chuyện làng nho vốn tên gốc là Nho lâm ngoại sử).

Truyện có chính truyện và ngoại truyện (một số sách tạp nham cổ được gọi là ngoại truyện, chẳng hạn Hàn Phi ngoại truyện)

Ngoại tình chính là được hình thành theo nguyên tắc ấy. Theo chỗ chúng tôi biết, từ này chỉ phổ biến ở Việt Nam. ở Hán ngữ hiện đại, hiện tượng ngoại tình được gọi là thông gian, tư thông.

 

 

29. Những chuyện lỗi hẹn

Sở dĩ cốt truyện tình duyên lỡ dở thường được các nhà văn cổ kim đông tây ưa chuộng, bởi lẽ đây cũng là dịp rất tố để mỗi tác giải trình bày cách hiểu của mình về bản chất con người.

Có thể là bạn chưa một lần đọc những truyện ngắn của Tô Hoài mà dưới đây, chúng tôi có nhắc tới. Nhưng có hề chi, nếu như cách nhìn những chuyện tình duyên lỡ dở đó cũng đã có lúc là cách nhìn của chính bạn.

– “Người trong cuộc đã đau khổ lắm rồi, không nên làm cho họ đau khổ thêm nữa!”. Có lẽ là với chủ ý như vậy, nhiều người trong chúng ta khi phải kể lại và các nhà văn khi phải viết lại những cuộc tình lỡ dở có thói quen mang lại cho câu chuyện một vòng hào quang lãng mạn. Để chứng tỏ việc A với chị B không lấy được nhau là trớ trêu, là vô lý, ta hãy tìm cách tô điểm sao cho hiện lên như một đôi trai tài gái sắc. Họ rất hợp nhau, lại rất say nhau. Họ đã làm mọi cách để giữ gìn mối tình của mình. Nhưng vì sự ngăn cản của cha mẹ, dòng họ, vì định mệnh khắt khe, vì ông tơ đa đoan nào đó, họ phải xa nhau vĩnh viễn. Xa nhau mà vẫn lưu luyến, vẫn giữ mãi tình xưa tận trong tâm khảm.

Có thế, truyện mới lâm ly và người đọc mới rơi nước mắt!

Nhưng không phải mọi người cầm bút đều sẵn lòng đi theo lối mòn như vậy.

Từ nửa thế kỷ trước, nhà văn Tô Hoài khi ấy mới 20 tuổi đã viết nhiều truyện ngắn nói về những cuộc tình lỡ hẹn với tất cả cái vớ vẩn, nhạt nhẽo, không đâu vào đâu mà sự đời thường có.

Dưới đây là tóm tắt một số cốt truyện loại đó:

– Trong Lá thư tình đầu tiên, anh chàng Cuông đã say mê Mị lắm rồi, nhưng không dám nói, đành tính chuyện “mượn bút thay lời”. Cuông bỏ mấy tháng đi học quốc ngữ. Lúc anh viết được lá thư đầu tiên thì cô Mị đã đi lấy chồng. Mối tình chết trong im lặng, song duyên do chỉ là vì Cuông quá nhát, thế thôi.

– Trong Vàng phai, cô Mây bỏ anh Hẹn chạy theo Quyền Vực, vì anh lính tập này (đã lên tới chức thày quyền) là một món sộp, so ra hơn hẳn chàng trai thợ dệt nghèo túng. Hẹn chỉ còn có cách ngâm thơ để kháy đời.

– Trong Một người đi xa về, Tại và cô Pha đã hứa hôn với nhau, nhưng gia đình Pha tham tiền, gả cô cho một người giàu hơn. Pha sẽ chống lại cha mẹ chăng? Không, với cô thế nào cũng được, ấy mới là điều làm cho Tại tức tối, căm giận. Tại bỏ đi Sài Gòn làm ăn, lúc khá giả mới trở về làng. Bấy giờ Pha mới hối hận: Ngày xưa giá như thế này… thế nọ… ta đã chẳng khổ như bây giờ. Kết quả: chồng cô vác gậy chèn cổng phang cho cô một trận. Rồi anh cầm cả một cái rổ bát quăng ra giữa sân.

– So với Pha trong truyện trên, nhân vật người con gái trong Một chuyến định đi xa khá hơn một chút. Cô hứa theo gã con trai đi trốn. Nhưng chỉ được có thế. Đến ngày hẹn, cô không ra ga làm gì! ít lâu sau cô đi lấy người khác.

Tóm lại, những chuyện lỡ làng kể ở đây chẳng có gì đẹp đẽ, cao quý, mà các nhân vật cũng chả có gì đáng thương hoặc đáng thông cảm. Đôi bên không lấy được nhau, chỉ vì cả đôi hoặc ít nhất là một trong hai bên vụng về, thiển cận, không dám và không biết quyết định vận mệnh của mình. Người ta hèn yếu, nên lẽ tự nhiên là người ta bất hạnh, giản dị có vậy. Thậm chí, dù lỗi hẹn chăng nữa, người ta cũng chẳng lấy thế làm đau khổ.

Đến như phản ứng của con người sau những lần lỗi hẹn đó, mới lại càng thê thảm hơn nữa!

Sau khi bị Pha lảng tránh “nhất định không dính líu rắc rối gì nữa”. Tại thù lắm. “Anh định cắt lưỡi nó đi. Phải, cầm một con dao bầu thực nhọn và thực sắc, đưa ngay vào cuống họng nó. Anh nghĩ thế ra lối hăng lắm”. Nhưng ý nghĩ ấy không đứng vững được lâu. “Tới khi anh tưởng tượng rằng rồi nó ngã gục xuống, máu ở vết dao đâm tuôn xối ra ướt hết áo quần và bắn lên cả mặt anh… Một cái gông bằng gỗ to lắm tự dưng lù lù kẹp vào cổ anh… Anh thoáng rùng mình lạnh gáy. Thế là cái mầu tư lự ghê gớm đó tan mất”.

May là Tại còn dám bỏ đi Sài Gòn.

Lại còn trơ hơn và hèn hơn Tại và Pha trong truyện trên, ấy là trường hợp các nhân vật trong truyện Lụa. Khi biết không lấy được nhau, Lụa đã tuyên bố là sẽ đi tu, và Nguyên cũng dạo bỏ đi Sài Gòn. Nhưng rồi dần dà ngày một ngày hai “không ai nghĩ đến chuyện đi đâu. Vào Sài Gòn, đường xa lăng lắc. Đi tu phải cạo trọc đầu mà cũng khổ lắm. Những lời quả quyết kia, cả hai cùng đã quên”

Cũng có một lần, câu chuyện lỗi hẹn trong Tô Hoài dẫn đến một kết cục không quá nhạt như vẫn thấy, mà còn có vẻ oan khiên một chút. Trong truyện Ông trăng không biết nói, khi biết người yêu của mình sắp đi lấy chồng, gã con trai phẫn lắm. Gã uống một chầu rượu thật say rồi gọi cô ta ra bờ giếng để tra hỏi. Câu chuyện chưa dứt, cô gái đã sợ hãi bỏ về. Giá kể vào tay một nhà văn thích màu mè nào đó, nhân vật gã con trai có thể sẽ nhảy xuống giếng tự tử và như vậy ở gã còn chút hào phóng khí khái đáng cho chúng ta ái ngại. Nhưng không, Tô Hoài vẫn là Tô Hoài, con người trong tác phẩm của ông xa lạ với mọi sắc thái ngang tàng, bạo liệt. ở truyện Ông trăng không biết nói cũng vậy, nhân vật gã con trai vẫn chết nhưng là chết đuối. Trong cơn say rượu, khát nước quá, gã chới với tìm nước và tuột chân rơi xuống giếng.

Còn cô gái, sau khi lấy chồng, không quên lẩn tránh, không bao giờ lai vãng đến chốn bờ giếng ấy nữa.

 

 

30. Sa đà, trót dại, hối hận

 

Ngoài nghĩa thông thường, bỏ lỡ mất thời cơ cần thiết, trong tiếng Việt, lỡ làng còn hàm nghĩa một sự lầm lẫn, một bước quá trớn. Nói hẹp hơn, nó chỉ việc trai gái chiều chuộng nhau, sàm sỡ với nhau quá “mây mưa đánh đổ đá vàng”, sau sinh ra hối hận thì sự đã muộn.

Trong văn học Việt Nam, ít ra đã có vài lần cái sự lỡ làng với ý nghĩa nói trên được các nhà văn nhà thơ nhắc tới.

1. Trường hợp “cổ điển”, phải kể là bài thơ Không chồng mà chửa của Hồ Xuân Hương. Mặc dù lên tiếng từ góc độ nạn nhân, góc độ người gánh chịu hậu quả của cái lầm lỗi mà cả hai bên cùng có trách nhiệm, song bài thơ vẫn có cái giọng ôn hoà, vừa phải. Có lẽ sự đa mang ở đây đã là kết quả của một say đắm, nên chi, khi nhớ lại nó, người phụ nữ không tỏ ý oán trách người đàn ông, không hối tiếc. Nàng kể lại mọi chuyện một cách thản nhiên. Đi xa hơn nữa, nàng còn không quên biện hộ cho mình.

Không có, nhưng mà có, mới ngoan

Làng xã đồng bằng Bắc bộ từng biết tới tục lệ độc ác là gọt tóc bôi vôi kẻ không chồng mà chửa. Đặt bên cạnh cái lệ làng ngặt nghèo ấy, lời biện hộ nói trên mang tính cách một sự thách thức rõ rệt nếu không muốn nói là còn pha cả chút trâng tráo nữa.

2. Trong một xã hội quen yên tĩnh và sợ mọi chuyện quá đáng, như xã hội Việt Nam, câu chuyện chàng rể ăn nằm với mẹ vợ là chuyện không bình thường và nếu vẫn gọi đấy là lỡ làng, thì phải nói thêm: một sự lỡ làng kỳ cục, quái gở. Một đề tài không có chất thơ tí nào, nếu đem thơ đồng nghĩa với sự thi vị, như vẫn thấy ở mỹ học cổ điển. Phải cỡ như Tú Xương mới đám đưa nó vào thơ, qua lời kể của ông, câu chuyện lỡ làng “độc nhất vô nhị” nói trên đây vào trí nhớ người ta, như một cái tin giật gân trên báo chí, chuyên cung cấp chuyện cho đám ngồi lê đôi mách. Đáng nhớ nhất có lẽ là hai câu đối chan chát:

Chép miệng bà nuôi to cái dại

Phờ râu ông rể ẵm con so

Sự thể đã đến mức thế, không ai có thể thông cảm được. Tú Xương cũng không thông cảm, mà chỉ cười cợt, chế giễu.

3. Trong văn học tiền chiến, sự lỡ làng theo nghĩa trót dại này còn được nhắc tới trong các phóng sự cũng như tiểu thuyết. Đọc Kẻ đến sau của Lê Văn Trương, người ta bắt gặp một cốt truyện đại khái như sau: một người đàn ông lấy được người vợ rất đoan trang. Có lần, trong một cuộc chung chạ, chợt anh ta phát hiện ra vợ mình đã một lần sinh nở, và mình trở thành kẻ đến sau, chẳng qua làm cái sái nhì chứ chẳng ngon lành bở béo gì! Điều tra kỹ, thì ra người đàn bà ấy đã một phen lỡ làng thật, nhưng sau hối hận cải tà quy chính, nhất quyết làm người đứng đắn cho thiên hạ biết. Câu chuyện như vậy không ra khỏi lối thuyết minh đạo đức thường thấy ở nhà tiểu thuyết Lê Văn Trương. So với không khí Âu hoá đương thời mà Vũ Trọng Phựng từng phơi bày trong Giông tố, Số đỏ… thì nhân vật của Lê Văn Chương đã cũ rồi, đừng nói là so với ngày hôm nay.

4. Chắc chắn rằng trong xã hội liên miên ba bốn chục năm chiến tranh như xã hội ta, những chuyện lỡ làng trong đời sống không thiếu, chết nỗi các nhà văn từ 1985 về trước thường gạt chúng sang một bên, coi là chuyện không đáng kể. May lắm thì như trường hợp Hai người trở lại trung đoàn của Thái Bá Lợi, nhân nhiều việc khác, người ta mới thấy tác giả kể thoáng qua là cô bộ đội trong đó đã một phen lỡ làng với người mình yêu, rồi phải ra Bắc chửa đẻ. Nhưng tác giả cũng nhanh chóng dừng mạch chuyện ở đó, để bắt sang các vấn đề khác.

5. Bàn thêm – Sở dĩ sự lỡ làng với nghĩa hẹp mà chúng ta đang nói, đang được khai thác, bởi lẽ đôi khi nhờ nó, người ta có dịp hiểu kỹ cái phức tạp của sự đời. Trong cách nhìn nhận các trường hợp lỡ làng kiểu này, có thể bắt gặp cả những nét đặc trưng cho tâm lý dân tộc nữa.

Đến nay, trên phương diện này, có lẽ tác giả Truyện Kiều vẫn là người đi xa hơn cả và tỏ ra tinh tế hơn cả. Trong thực tế, không có tình huống nào đáng gọi là lỡ làng xảy ra với các nhân vật phụ nữ trong Truyện Kiều. Mặc dù trong cảnh tình tự thề bồi, tình cảm Kim-Kiều đã lên đến mức đắm đuối, dải là hương lộn bình gương bóng lồng, song khi Kim Trọng đưa ra lời yêu cầu cuối cùng thì Kiều đã nghiêm mặt ngăn lại, rồi giảng giải một hồi, khiến Kim Trọng cũng phải vì nể. Chỉ có điều lạ là chính nàng Kiều rất chừng mực đó, sau này, trong cảnh đoạ đày lại tự nhủ:

Biết thân đến chốn lạc loài

Nhị đào thà bẻ cho người tình chung

Kiều cũng hối hận, nhưng so với kiểu thông thường, thì đây là kiểu hối hận theo chiều ngược lại, hối hận rằng mình đã không làm cái điều nhiều người con gái khác đã làm. Nếu coi lỡ làng (với nghĩa sa đà trót dại) là một tội lỗi, có thể bảo Kiều vô can, trắng án trong hành động, nhưng đã phạm tội trong cái ý nghĩ.  Cái sự biết thế… của Kiều thoạt tiên khiến cho người  ta sửng sốt. Nhưng sau sửng sốt là thông cảm, bái phục. Sao Kiều chân thành thế? Sao nàng dũng cảm thế trong việc gọi ra ý nghĩ của mình? Trong cả sự chừng mực dừng lại đúng lúc trong hành động, lẫn sự biết thế phóng túng trong ý nghĩ, Kiều thật đã vượt lên để gần trung với hình mẫu một con người lý tưởng của mọi thời đại, ở đó, không có phân chia giữa khuôn khổ cổ điển với phong cách hiện đại.

 

31. Người bạn đường một thuở

(Kỷ niệm về nhà ga và những chuyến tàu trong văn chương tiền chiến)

Mỗi lần nói tới chuyện đi xa, không hiểu sao tôi cứ thấy vấn vương cái hình ảnh những con đường sắt, những nhà ga, nó là một bộ phận làm nên kỷ niệm của tôi về các vùng quê. Và tôi không khỏi nhớ tới một số sáng tác thơ văn của các tác giả tiền chiến quen thuộc chung quanh đề tài này.

Tản Đà

Nhà thơ này thường được biết tới qua những vần thơ réo rắt tình cảm như Thề non nước, như Qua cầu Hàm Rồng cảm tác. Nhưng nên nhớ là trong con người Tản Đà, bên cạnh nhà thơ, còn có một nhà văn xuôi, nhà báo, và ông đã kịp ghi lại những nét thay đổi ở nước Việt Nam hồi đầu thế kỷ, trong đó có La-ga Hàng Cỏ (tên gọi cũ của ga Hà Nội). Đây là mấy đoạn trong bài thơ ấy.

Thường thường đôi khi về chơi Hà

Chơi chán trò chơi trở lại nhà

Gần sáng nghe động xe điện chạy

Cao su cũng tít kề la-ga

La-ga lúc ấy đèn choang sáng

Xôn xao rối loạn tây, tàu, ta…

Đặt vào hoàn cảnh những năm từ 1930 về trước thì việc đưa những chi tiết đời thường vào thơ như trên đã là táo bạo, nó là chuyện có phần mới đối với lớp nhà thơ quen viết theo thi pháp cổ. Và bài thơ khép lại bằng một nhận xét cũng rất báo chí:

Bao nhiêu nhanh chóng bấy nhiêu tiền

Đã tiện cho dân lại lợi nước

Nghĩ xem một việc đường hoả xa

Thực người đời nay sướng hơn trước.

Rồi ra, người ta sẽ thấy Tản Đà tận dụng đường sắt trong nghề làm văn làm báo như thế nào. Nguyễn Công Hoan trong một đoạn hồi ký cho biết có thời gian Tản Đà ở Hà Nội làm An Nam tạp chí, nhưng mang in tận thành phố Vinh, và ông đi lại trên đường như đi chợ. Đường sắt được ông coi như nhà của mình, cứ lên tàu là ông ngủ, người soát vé đã quá quen chẳng buồn dựng ông dậy để hỏi vé nữa.

Nguyễn Bính, Tế Hanh, Nguyễn Tuân

Từ sau Tản Đà, cái nhà ga còn được nhiều thi sĩ khác nhắc nhở tới, và dĩ nhiên là với những nét thi vị hơn. Nguyễn Bính nhìn thấy ở ga toàn những chuyện chia ly, đó là nơi “ cây đàn sum họp đứt từng dây” Tế Hanh cũng kể rằng những ngày nghỉ học thường ra ga ngắm cảnh người ta tiễn biệt nhau và nhận xts: “Có chi vướng víu trong hơi máy Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau”. Chỗ giống nhau của hai thi sĩ này là quen sống trong một khung cảnh êm ấm, các ông rất sợ những sự thay đổi, từ đó mà sinh ra đa sự khi nhìn cái nhà ga. Nhưng có lẽ đa sự hơn cả, vân vi lắm chuyện hơn cả, trong quan hệ với các nhà ga, phải là Nguyễn Tuân. Truyện dài Quê hương có hơn hai chục chương thì đến bốn chương nói đến chuyện nhân vật Bạch lảng vảng ngoài ga Hàng Cỏ. Không tiễn ai cả, Bạch chỉ vẩn vơ ra đấy. Để tìm cảm giác lạ. Để làm một tí hành động vô lý giữa cuộc đời có lý. Để nhìn thấy mình vừa khác mọi người vừa giống mọi người. Nhà ga như vậy đã trở nên quen thuộc với người dân Hà Nội, người ta không cảm thấy xa lạ mà lui tới tự nhiên và sẵn sàng xem đấy như một biểu tượng của cuộc sống đang đi vào chuẩn mực. Có điều cả Nguyễn Tuân lẫn Tế Hanh, Nguyễn Bính mới dừng lại ở những đầu mối giao thông lớn, trong khi câu chuyện về đường sắt lẽ ra còn là chuyện của những chuyến tàu xẻ dọc những miền quê và tạo nên bao biến thiên cho các vùng đất xa xôi, vốn ẩn mình trong yên lặng. Đấy là công việc sẽ được các cây bút khác tiếp tục.

Thanh Tịnh

Những truyện ngắn một hai ngàn chữ in trong tập Quê mẹ của nhà văn này như những chương sách nối tiếp của một cuốn tiểu thuyết thống nhất, và các nhân vật của ông đều có một quê hương chung, đến nỗi nhớ đến Thanh Tịnh là người ta nhớ ngay đến các địa điểm hoạt động của các nhân vật ấy: Làng Mỹ Lý. Theo sự dàn dựng của Thanh Tịnh thì đang sống trong cảnh thanh bình êm ả như nhiều làng quê miền Trung khác, Mỹ Lý bỗng chộn rộn hẳn lên, do cái sự kiện là có con đường sắt đi qua. Thế là có chuyện cô Duyên (nhân vật trong Bên con đường sắt) mở một quán bán hàng cơm ở gần ga. Một cuộc sống khác đi đã đến với cô gái quê này đến mức, dù về sau cái ga cũ trở nên vắng vẻ (vì có ga mới được khánh thành), song cô cũng không thể trở về làng cũ được nữa. Còn trong Tình thư (nên coi là một trong những truyện tình hay nhất của thơ văn tiền chiến), thì người gây ra mối tình đau khổ cho cô Sương cũng là một viên xếp ga. Và khi nhờ một em nhỏ viết thư cho viên xếp ga nọ, cô Sương đắn đo mãi, rồi không đừng được, phải tha thiết dặn thêm:

– Này em Thanh ạ, giá nói thêm câu này như ý chị nghĩ thì hay nhỉ… Nhưng nói thế có được không? Chị muốn nói rằng mỗi khi nghe tiếng còi tàu đằng xa, nhất là trong những đêm vắng vẻ thì thế nào chị cũng nhớ đến thầy Xuân. Em liệu viết hộ chị nhé.

Cách nói không khỏi có chút văn vẻ, song lại cho thấy một sự thực: con tàu đã là một bộ phận trong cuộc sống tinh thần của những con người ở một vùng quê. Từ khi có đường sắt, họ không thể sống như cũ.

Thạch Lam

Đây cũng là một nhà văn có nhiều duyên nợ với con đường sắt, hơn nữa, có thể nói, đây là ngòi bút đã diễn tả một cách tinh tế nhất cái vang hưởng mà những chuyến tàu để lại trong tâm tình của người dân các vùng nông thôn xa xôi.

Giữa năm 1997, có dịp về Cẩm Giàng, nơi Thạch Lam lớn lên từ nhỏ, chúng tôi được biết vùng quê này ở vào một vị trí giao thông khá thuận tiện không chỉ có đường thuỷ nối với Hưng Yên, Nam Định, mà còn là một ga lớn, các chuyến tàu Hà Nội – Hải Phòng bao giờ cũng dừng lại ở Cẩm Giàng. Và bởi lẽ tàu xe bấy giờ đã chính xác đến từng phút cho nên Cẩm Giàng gần như là một vùng phụ cận của Hà Nội, mỗi khi có chuyến tàu qua, cái phố chợ ấy lại bừng lên một sức sống mới. Và điều này đã được Thạch Lam kể lại trong thiên truyện Hai đứa trẻ. Dưới cặp mắt nhìn trong trẻo của Liên và An, hình ảnh đoàn tàu ở đây trở nên uy nghi rực rỡ. Lúc tàu đỗ “hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Lúc tàu đi “Tiếng còi đã rít lên và đoàn tàu rầm rộ đi tới (…), các toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Trong ý nghĩ của người dân phố chợ nghèo, vậy là con tàu tượng trưng cho một thế giới khác so với cái thế giới vốn bình lặng hàng ngày. Song nó không tạo ra mối phản cảm, mà ngược lại chỉ gợi nên những ao ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Một ý nghĩ nhỏ

Mới đây, có lần từ cầu Chương Dương nhìn qua cầu Long Biên, tôi thấy một đoàn tàu, mà sau đầu máy, chỉ móc thêm có dăm sáu toa gì đó. Và tôi, chợt nhớ lại những lần đi qua mấy cái ga xép, thấy cảnh nhà ga sao quá vắng vẻ, ban ngày mà cửa đóng im ỉm. Hình như ở các vùng quê, bà con bây giờ có việc gì ra tỉnh thường thích ngồi ô tô hơn là ra ga đi xe lửa, và hàng ngày nhiều đoạn đường sắt chỉ thưa thớt vài chuyến tàu tốc hành. Nguyên do thế nào không rõ nhưng lòng tôi cứ thấy lưu luyến với cái thời cũ, khi mà mọi sinh hoạt quê hương dồn cả lại bên cái ga xép, và các đoàn tàu đi về như một thứ đồng hồ giữ nhịp cho cuộc sống đều đặn. Và tôi chợt nghĩ, giá quê hương ta vẫn phát triển mà không ồn ào lộn xộn, mà mọi chuyện diễn ra hài hoà hợp lý, thì hay biết mấy?! Tôi đã chớm già, nên sinh ra lẩn thẩn rồi chăng?

 

32. Nguyễn Tuân và sự độc đáo trong văn chương

ở bất cứ phương diện nào của nghệ thuật ngôn từ, ông cũng khéo léo đặt cái dấu ấn riêng của mình. Trước thứ văn bản trộn không lẫn ấy, các loại văn chương không dấu ấn riêng như một thứ gì hạng nhì, hạng ba.

1. Bước đầu: từ bỏ

Lúc mới viết, Nguyễn Tuân cho “trình làng” một thứ văn chương nhang nhác như “xã hội ba đào ký” của Nguyễn Công Hoan, tức là đi vào khắc hoạ những nét kỳ cục buồn cười của chung quanh. Nhưng rồi đặt vào hoàn cảnh thị trường văn chương đang hình thành, ông cảm thấy không ổn. Phải tìm ra được “mặt hàng riêng” của mình. Có vẻ như ở đây người ta phải dám chơi một tiếng bạc “được ăn cả ngã về không”. Và Nguyễn Tuan đã chấp nhận. Cái cách viết mới le lói hình thành qua vài bài in trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Giang bị ông từ bỏ. Một cuộc phiêu lưu bắt đầu, Nguyễn Tuân “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi vào con đường độc đạo chưa ai đặt chân.

2. Lấy bản thân làm tài liệu

Mọi người dễ nhận ra khi đọc Nguyễn Tuân là ông chỉ viết về chính những gì ông đã sống. Trong khi ở một số người cầm bút đương thời có hiện tượng “sống một đằng viết một nẻo” thì ông mang chuỗi ngày quý báu của mình đang thể nghiệm vào luôn các trang viết. Đọc những bài trong Tuỳ bút I, Tuỳ bút II, Nguyễn… người ta không những biết ông gia cảnh thế này, dòng dõi thế kia, mà còn được biết thói quen hút thuốc và đọc sách của ông, ý thích lang thang trên các đường phố Hà Nội của ông, thậm chí còn được biết ông làm thêm một cái nhà, hoặc đi dự một đám cưới ra sao.

Phải nói đây là cả một hướng đi bạo. Ngay ở phương Tây, từ thế kỷ XIX về trước, lối viết đi vào xây dựng hình ảnh bản thân đã bị lên án. Pascal từng bảo: “Cái tôi thật đáng ghét”. Đối chiếu với thói quen giao tiếp của người phương Đông thì cái cách nói về bản thân không biết mệt ấy lại càng khó coi. Nguyễn Tuân lại tình nguyện đi vào vùng cấm ấy có phải vì những ý nghĩ thường trực sau:

– Trong tất cả sự độc đáo trên đời, chỉ có sự độc đáo của mỗi cá nhân là bền vững nhất, chắc chắn nhất.

– Chỗ giống nhau của tất cả chúng ta là chẳng ai giống ai hết.

– Vậy cách tốt nhất trong giao tiếp là cứ hiện đúng như mình vốn có, biết đâu nhờ đó lại tạo nên sự đồng cảm.

Montaigne chắc không thể ngờ là cái câu ông viết trong Tiểu luận “Tôi chính là chất liệu cho sách của tôi” lại được một nhà văn nước Việt thực hiện một cách trọn vẹn.

3. Một chút quá đáng

Trên cái hướng lớn là khai thác bản thân, một động tác nữa được thực hiện để tạo nên vẻ độc đáo của văn chương Nguyễn Tuân, đó là ông luôn tìm cách tô đậm những gì khác người nơi mình. Trên các trang viết, con người tác giả thường hiện ra đầy thách thức. Ai kia quen sống theo khuôn khổ, hẳn không thể thích cách sống ngang tàng không chịu ràng buộc của ông. Trong sự chung sống, nếu như người đời thường trọng sự khoan hoà nhân ái, thì ông sẵn sàng “lượm những hòn đá thực to ném lung tung, bất kể là trúng đích hay trật sang bên cạnh” (Đôi tri kỷ gượng). Cho đến lời lẽ hàng ngày của Nguyễn, theo chính ông miêu tả, thường cũng “lủng ca lủng củng dấm dẳng cứ như đâm vào họng”. Những người có quen biết ông Nguyễn đều biết rằng, thực ra, ở đây tác giả có phần thậm xưng. Đọc kỹ văn của Nguyễn Tuân, người ta nhận ra ông không chỉ ích kỷ, mà còn biết lo cho mọi người; có lúc rất khinh bạc, nhưng có lúc lại đôn hậu biết điều. Nói chung, phải nhận đó là một con người khả ái, bởi ý thức phục thiện và những tinh tế trong đối xử. Nhưng Nguyễn Tuân lại cứ thuận miệng mà tố mình lên như vậy là vì ông muốn tạo ra cho trang viết một hiệu quả nghệ thuật cần thiết. Và sự hấp dẫn của văn ông là sự hấp dẫn của kẻ làm xiếc, kẻ đi trên bờ vực. Theo dõi lời lẽ, cử chỉ của kẻ thường tỏ ra khác đời ấy, người bình thường không khỏi nhiều phen kinh sợ, nhưng rồi ra, lại được thở phào nhẹ nhõm. Và lúc tới được với con người đích thực nơi ông, cũng là lúc người ta hết lời cảm phục.

4. Độc đáo để thành thực

“Lúc mới giao thiệp loàng xoàng với chung quanh, người ta đã không chịu được chàng rồi. Bây giờ Nguyễn lại làm sách để ghi lại những cái lố bịch mà sự chung đụng mỗi ngày càng vạch rõ thêm, người ta lại càng không thể tha thứ cho chàng được nữa” (tài liệu đã dẫn).

Trong lời tự nhận xét trên, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy một sự thực: ở xứ sở này, sự độc đáo trong văn chương dường như là chuyện hai lần vô lễ, chung quanh không bao giờ chấp nhận. Câu hỏi đặt ra: tại sao ông Nguyễn vẫn xé rào mà đi và cuối cùng lại được kính trọng? ở đây, câu trả lời có liên quan đến một vấn đề cơ bản của nghệ thuật.

Mỗi khi có dịp tiếp xúc với bạn đọc, một số cây bút hạng nhì hay tỏ ý phân trần: trong tác phẩm tôi viết, tôi không thêm thắt bịa đặt gì cả. Tôi chỉ ghi chép sự thực như nó vốn có. ít ra, tôi đã biết điều, tôi đã khiêm tốn! Khốn khổ, nếu như sự thật trong nghệ thuật là cái chuyện bất cứ người trần mắt thịt nào cũng nhìn thấy, thì các tài năng làm gì còn có lý do mà tồn tại?! Không, cái gọi là sự thực khách quan ấy thường nhàm chán, vô bổ. Ngược lại, cái sự thực mà người ta mong tìm thấy ở tác phẩm văn chương  bao giờ cũng mang màu sắc chủ quan của các nhà văn chân chính, nghĩa là chỉ nhà văn đó mới nhìn ra, mà những người khác không thể thấy. Nói gọn lại tức là: trong văn chương, người ta không độc đáo thì cũng không thể thành thực.

5. Không dễ bắt chước

Thấy Nguyễn Tuân “chơi lối độc tấu” được nhiều người mến mộ, không ít cây bút vỡ ra bài học về sự độc đáo và cũng có ý học theo, mà trước tiên là tô đậm cho cuộc sống và văn chương mình những vẻ khác đời. Có điều phần lớn những cây bút học đòi này thất bại: sự độc đáo trong văn chương ở họ, rút lại là một cái gì dang dở bất thành, cá tính hiện ra thành cá tật, đôi khi đọc chướng anh ách và đọc một lần là người ta sợ, không dám đọc tiếp.

Đến được sự độc đáo trong văn chương, Nguyễn Tuân dựa trên một căn bản văn hoá vững chắc; muốn học cách khai thác bản thân như Nguyễn Tuân, trước tiên phải có vốn liếng từng trải thâm hậu và bản năng làm người nhạy bén như ông Nguyễn – bằng không, tẩu hoả nhập ma là chuyện khó lòng tránh khỏi.

 

 

33. Sự biến hoá của cái đẹp

 

Nguyễn Tuân là người làm gì cũng có một sự dụng công và chăm chú khác thường. Mỗi khi cần nói về cái đẹp, ông lại càng tỏ ra trịnh trọng, như đang phải làm một công việc thiêng liêng. Ông đã bàn tới cái đẹp trong mọi hoàn cảnh có thể: Khi phác hoạ một bức tranh thiên nhiên; khi bàn về nghệ thuật; khi bắt gặp một kiểu nhân vật, một con người, một hình dáng, một cách cư xử. Hồi viết Vang bóng một thời, ngay trong những đoạn miêu tả một vài hành động thông thường như việc người này uống trà, người kia làm một cái đèn cho con chơi, thậm chí tả một đám cướp dở, ôn lại ít ngón nghề trước khi vào việc, ông cũng mỹ lệ hoá hành động của chúng, làm cho những hành động ấy hiện ra hấp dẫn kỳ lạ, như là do các nghệ sĩ thực hiện. Có vẻ như nếu trên đời này, có một ngôi đền dành để phụng thờ cái đẹp, thì Nguyễn Tuân chính là viên tư tế chuyên lo công việc đèn nhang cho người đến lễ. Rung cảm trước cái đẹp là dấu hiệu phải có ở một con người lịch lãm thạo đời. Hiểu biết về cái đẹp là niềm kiêu hãnh duy nhất mà người tài tử thèm muốn. Và mỗi giây phút bắt gặp cái đẹp là một đặc ân, một phút xuất thần của con người: Nhiều trang sách của Nguyễn Tuân trước 1945 được viết để nói với bạn đọc cái điều tâm huyết ấy. Từ sau 1945, trong hoàn cảnh đầy biến động của hai cuộc kháng chiến nối tiếp, nhà văn này vẫn tìm đủ mọi cách để nhắc tới vẻ đẹp. Hoặc ông tố cáo tội ác của những kẻ huỷ hoại thẩm mỹ, huỷ hoại nghệ thuật (như ở bài Xoè in trong Sông Đà). Hoặc ông lưu ý rằng chúng ta phải tạm thời hy sinh cái niềm vui ấy đi để làm những việc cần kíp (“ Trời hãy đừng đẹp nữa” – một câu trong bài Giữa hai xuân). Và về sau thì ông lại để công săn tìm những vẻ đẹp mới mà trong thực tế hôm nay mới xuất hiện.

Đỏng đảnh, già dặn, quái gở

Cái đẹp vốn đa dạng như cuộc sống. Tuy nhiên, người đời vẫn gặp nhau ở một cách hiểu chung về nó, đại khái, trong cái vẻ đẹp phải có những nét hài hoà, mới và trẻ thì dễ đẹp; và theo truyền thống phương Đông, cái đẹp phải đi đôi với cái thiện. Nhưng đó là cách hiểu thông thường! Một người đến với văn chương độc đáo như Nguyễn Tuân không thể bằng lòng với cách hiểu đó mà phải đưa ra bằng được những quan niệm riêng. Ngay từ 1944, nhà phê bình tờ Tri Tân là Kiều Thanh Quế đã nhận xét: “Văn Nguyễn Tuân khi dí dỏm như cô gái làm nũng, khi lại đỏng đảnh như người đàn bà khó chiều”. Cái sự đỏng đảnh tai ngược mà Kiều Thanh Quế nói ở đây, cũng có thể dùng để nói về quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân. Ông hay nói tới những vẻ đẹp già dặn. Trong văn của ông, người đàn bà đẹp thường là những người đứng tuổi, thạo đời, giỏi ngón ăn chơi, song lại có học, nhiều khi chơi chua và hay nói phũ, để rồi biết dừng lại đúng lúc, và tạo nên sự quyến rũ của riêng mình. Rộng ra mà nói, cái đẹp của Nguyễn Tuân thường có khuôn mặt của cái lạ, cái khác thường, nói chung đó là những cái đậm, gắt mà người đời cho là ra ngoài khuôn khổ. Sự đa dạng của vẻ đẹp mà ông đưa ra có thể thấy ngay ở những từ xác định mức độ, sắc thái của cái đẹp được miêu tả. Ngược với cái đẹp hiền hậu kiểu Thuý Vân (mà tác giả gọi là một vẻ đẹp “vững chãi và ngu dại”, ông thích cái đẹp sắc sảo của Thuý Kiều (Một lần đi thăm nhau). Đi xa hơn, ông nói tới cả cái đẹp tả tơi, cái đẹp hỗn độn (Chuyến xe tình), cái đẹp ngột ngột (Đôi tri kỷ gượng). Trong những thiên truyện được gọi chung là yêu ngôn, Nguyễn Tuân lại hay tả lại sự ám ảnh của những vẻ đẹp oan nghiệt, cái đẹp rờn rợn, khiến cho người ta vừa thích vừa sợ (như vẻ đẹp của nhân vật cô gái bán giấy bút trong truyện Khoa thi cuối cùng). Cái đẹp qua cách miêu tả của ngòi bút Nguyễn Tuân như vậy trở nên thoắt ẩn, thoắt hiện, biên giới của nó như mở rộng hơn, và hồn cốt của nó sẵn sàng nhập vào cả những sự vật mà trước kia người ta ít ngờ tới.

Đi xa nhất trong việc tiếp nhận

Cùng với Thạch Lam, Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiền chiến tự đặt cho mình là phát hiện bằng được cái đẹp vốn tản mát trong đời sống. Thế nhưng sau chỗ xuất phát chung ấy thì hai người lại đi theo hai con đường hoàn toàn khác nhau.

Nếu cái đẹp ở Thạch Lam mang sắc thái thuần hậu, thì đến Nguyễn Tuân nó đi gần tới sự bất cần đời, ngạo nghễ, phá cách (“ Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn rất nhanh” – Chuyến xe tình). Sự xuất hiện một quan niệm cực đoan như thế trước tiên do sự phát triển nội tại của văn học. Từ những năm 30, đời sống tinh thần ở xứ sở có sự biến chuyển nhanh chóng, từ “xanh” đến “chín”, từ đơn sơ học lỏm đến lúc có tất cả cái rắc rối phức tạp mà một nền văn hoá làm theo mẫu hình phương Tây thường có. Thêm vào đấy phải tính tới môi trường lớn mà văn hoá Việt Nam lúc đó phụ thuộc. Nhìn lại văn chương những năm trước sau 1940, người ta không khỏi nhận ra những mảnh vỡ trong mỹ học của các trường phái suy đồi, siêu thực (nói chung là có màu sắc duy mỹ) – những trường phái này phát triển ở Pháp từ đầu thế kỷ XX, và theo sách báo in ra đều đều mà thấm dần vào xã hội Việt Nam. Trên cơ sở một quan niệm hiện đại về quyền tự do của con người, nếu Nguyễn Tuân cùng với một số văn nghệ sĩ khác có tiếp nhận chúng một cách dễ dàng thì cũng không phải là một điều khó hiểu! Cố nhiên, trong hoàn cảnh riêng của xã hội Việt Nam lúc ấy, những quan niệm hiện đại kia không được nhập cảng một cách trọn vẹn. Các nhà văn nhà thơ vốn có một nền học vấn vững chãi như Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, hoặc bên hội hoạ như Nguyễn Đỗ Cung v.v… thường không quên đưa vào đây những yếu tố duy mỹ trong nghệ thuật phương Đông (Lão Tử, Trang Tử hoặc chất huyền hoặc trong Liêu Trai), mặt khác, tiếp nhận tinh thần phá cách trong văn hoá dân gian Việt Nam để làm nên những cốt cách riêng. ở phương diện này, Nguyễn Tuân trong thời tiền chiến là một trong những người đi xa nhất.

Theo sự quy định của thời đại

Từ sau 1945 tuy vẫn để tâm săn tìm cái đẹp, song ngòi bút của Nguyễn Tuân lại được hướng dẫn bởi một mỹ cảm khác hẳn. Nếu hôm qua, ông hướng về cái đẹp theo cái cách lạnh lùng khinh bạc và nghiên về phân tích nội tâm thì hôm nay, ông ngả sang bao quát ngoại giới. Có dịp đi nhiều biết rộng, ông thích thú khi nói tới cái đẹp bao la lộng lẫy (và đôi khi hung dữ nữa) của rừng và biển. Nếu hôm qua, ông cảm nhận một cách sâu sắc sự oái oăm “cái gì đẹp quá thì chóng tàn”, “cái gì đẹp quá thì ít khi được là thực”, thì ngày nay, cái đẹp ấy không yểu mệnh nữa mà trở nên chắc thiệt, lành mạnh. Để xác định vẻ đẹp tiêu biểu cho ngày hôm nay, có lần Nguyễn Tuân đã đặt hẳn bên cạnh nó mấy chữ mà có lẽ trước khia ông không ngờ tới: đẹp, bây giờ phải đồng thời lành, tốt, bổ (bài Cửa Tùng). Tại sao lại có sự chuyển biến kỳ lạ như vậy? Người ta chỉ có thể hiểu được điều đó khi đặt hai giai đoạn phát triển trong mỹ cảm của Nguyễn Tuân vào hai giai đoạn lịch sử mà ông đã sống. Thời đại cũ yêu cầu độc đáo thì ông độc đáo đến ngoa ngoắt, thời đại nay yêu cầu sự có ích, thì ông thông thoáng hơn bao giờ hết. Và nếu trước kia, ông viết chỉ để dành cho một thiểu số bạn đọc gần gũi với ông, thậm chí người nghe thì thích song không hẳn đồng tình với ông thì ngày nay ông thuộc về một lớp độc giả đông đảo hơn hẳn. Mỗi thời ông lại phát biểu tư tưởng thời đại theo một cách riêng, và đó là điều tạo nên cho văn chương ông sự hấp dẫn.

34. một tư duy nghệ thuật kiểu liêu trai

Yêu ngôn là tên gọi một tập sách nhà văn Nguyễn Tuân đã dự định làm từ mấy năm 1942-1943 rồi bỏ rơi. Hai chữ “yêu ngôn” dùng ở đây là nhằm để chỉ loại truyện ở đó có người mà lại có ma, mà cùng với người làm nên những chuyện ly kỳ quái đản song suy cho cùng lại gợi ra cho người đọc thấy cái tinh thần sâu xa của đời sống hiện thực.

Sinh thời Nguyễn Tuân, các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành tập. Nay dựa trên ý đồ và tài liệu sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại Yêu ngôn và tới… 1999 thì khai sinh cho nó thành một đầu sách của nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Chúng ta có dịp đọc lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, ngoài ra còn có Khoa thi cuối cùngTrên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời ), Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).

Song theo chúng tôi hiểu, ngoài cuốn Yêu ngôn này, tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai ở Nguyễn Tuân còn bộc lộ ở nhiều thiên tuỳ bút khác mà ông đã viết, chính cái phần tản mạn rời rạc ấy cũng cho thấy Nguyễn Tuân là một ngòi bút nhất quán trong phong cách biểu hiện. Sau đây là một tí bằng chứng rõ rệt nhất:

1. Ngay trong Vang bóng một thời đã nên lưu ý thêm tới Bữa rượu máu (có lúc gọi là Chém treo ngành) với đoạn kết nhiều ngụ ý “Lúc quan công sứ ra về, khi bước ra mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trận gió xoáy hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lộn mấy vòng”.

Tìm đọc Phu nhân họ Bồ trong Tuỳ bút II in ra 1943 người ta thấy Nguyễn Tuân bắt đầu nói tới “vẻ đẹp quái gở” cũng như trong Chiếc lư đồng mắt cua có những nhận xét bâng quơ “Cái gì đẹp quá vốn ít khi là thực”. Cùng trong Tuỳ bút II, lại có một bài khác (có nhiều chất của một truyện ngắn), mang tên Một cái tết vô duyên. Đây là câu chuyện về một chàng trai trẻ, con của một người đào hát, nên có tính lang bạt kỳ hồ. Bữa ấy, theo lời nhắn của mẹ, cậu quay về gia đình ăn tết. Nhưng như có tiền định, khi cậu thử bói xem năm mới ra sao thì bói gì cũng hỏng. Bói bằng cách khai bút thì “bỗng quản bút chụt khỏi tay cậu, nhấn mực xuống xoá nhèm cả mấy chữ cuối cùng”. Ra sông bói đò thì nhỡ đò. Quay về bói tuồng, “cậu Tám thèm một cái mặt đỏ của một vai tuồng trung nghĩa”, nhưng “số phận đã cho cậu bói đúng vào chiếc áo bào xanh lè không có đầu”. Sau hết, tối lần ra chùa làng xóc thẻ, cậu rút phải một cái thẻ không có số hiệu quẻ bói. Như là một ma lực nào đó nhất định buộc cậu phải trở lại cuộc sống giang hồ và cậu Tám đành đầu hàng số phận.

2. Ngọn đèn dầu lạcTàn đèn đầu lạc là hai tập phóng sự Nguyễn Tuân viết về đám dân làng bẹp (cả hai vừa được xuất bản Hải Phòng dồn lại in vào thành một cuốn sách chưa đầy 200 trang). ở đây, khi nói rằng có một người đàn bà muốn ông tự diệt mình trong khói thuốc phiện, không ngần ngại liên tưởng ngay đến “con hồ ly trong truyện Liêu Trai yêu người thư sinh chán rồi rút cục là biến mất và để lại cho trần gian một cái xác co quắp, hình thù cổ quái”. Trong hai tập phóng sự này, mỗi khi nhắc nhở tới không khí nơi tiệm hút, là một dịp để tác giả kêu lên: “Gớm sao mà Bồ Tùng Linh thế!” “Sao mà Edgar Poe thế!”. Trong  quan niệm của tác giả bấy giờ, thì loại thi sĩ và các nhà viết tiểu thuyết có hơi hướng thần bí mới là loại nhà văn đích thực, vượt lên trên các tác giả của loại văn chương hạ cấp (trong chương Tập ký ức của người bồi tiệm)

3. Một số người lầm tưởng rằng tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai chỉ có ở các sáng tác của Nguyễn Tuân thời kỳ trước 1945. Nhưng không phải vậy. Trong kháng chiến chống Pháp, khi dựng lại không khí một vùng buôn lậu, ông viết: “Danh từ Cống Thần tôi tưởng như đó là tên một truyện quái dị, gợi đến một thiên tai có sự rùng rợn của thuỷ hoả đạo đặc. Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ lật ngửa những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao nhiêu cái nhố nhăng kia lên giời (…)” (bài Cống Thần, in trong Tuỳ bút kháng chiến.)

Sau này, viết Tình rừng khi tả những khu rừng cháy, ông lại để cho liên tưởng của mình đi khá xa. “Ngồi trong lòng đò đuôi én ngược thác sông Đà, tôi nhìn lên nhiều đám cháy trên đỉnh đầu, tàn cháy nương mùa xuân bay đầy trời như những đàn bướm đen nhúng cánh vào những ghềnh trắng bọt. Trên rừng cháy chỉ thấy khói không thấy người. Nghĩ mà thấy giận người đốt rừng, chính người đốt rừng ấy đang đốt bản thân mình, đang đốt cơ man nào là sách in, trong ấy có cả sách của mình nữa”. Hoặc như, khi Kể chuyện vĩ tuyến mười bảy (in trong Chuyện nghề), ông dừng lại kỹ hơn ở nơi mà người ta hay bảo là có ma. “Đêm trăng tại nhà thơ ép xác thiệt là buồn nhức xương… Đêm thanh vắng, gió ngàn lùa về tới đây cả tiếng tru tiếng sủa trăng của loài sói dấy lên từ phía Cây Tấm, Bến Tắt. Chao ôi, tôi thật là cái anh hay vẽ chuyện. Nằm ở nhà thờ Phước Sơn để nhìn những tủ sách Kinh La bụi bặm và bước đi mình toàn là tiếng lạo xạo trên cơ man là mảnh vỡ cửa kính giáo đường hoang vắng. Đêm gió lửa Tây ô mà sao lại thấy rùng mình và rờn rợn khi nhìn vào mảng tối chen với ánh trăng suông…”

4. Một phần tâm huyết của Nguyễn Tuân những năm cuối đời dồn vào việc viết phê bình. Nhưng đó là những trang phê bình của một người sáng tác nên cũng mang đậm sắc thái cá nhân, nói cách khác, tác giả đã mang vào đấy những kinh nghiệm sống riêng của ông, đọc bài phê bình người ta được biết không chỉ tác phẩm ông đang đọc, mà còn cái phần con người riêng của ông. Dĩ nhiên, là người đã viết yêu ngôn, Nguyễn Tuân cũng thường đọc ra ngay chất yêu ngôn ở văn người khác. Chẳng hạn, trong số rất nhiều truyện ngắn của Lỗ Tấn, Nguyễn Tuân có sự biệt nhãn với truyện Thuốc trong đó có chi tiết cái bánh bao còn nóng máu người “đầy rẫy một mùi thơm quái lạ”, và trong tay người ốm nó “phụt ra một luồng hơi trắng”. Đọc Tắt đèn ông liên tưởng ngay tới Những linh hồn chết của Gogol, trong đó có nhân vật địa chủ “bằng một gái rất rẻ, đã đi vơ vét những hồn ma là các tá điền nông nô đã chết, đem danh sách cầm cho nhà băng lấy tiền”. Còn khi trở lại với thơ Tú Xương, nhân mấy câu Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa ú ớ u ơ ngọn bút chì, Nguyễn Tuân có những lời bình rõ ra chất tư duy nghệ thuật riêng ở ông: “Đọc lên nghe nó hãi hãi như phải nghe một ông dở người cắm đầu bút vào, mồm thấm nước bọt cho đậm thêm nét bút chì  và lấy quá tay hoá ra hóc thỏi chì. Nghe nó còn ghê ghê như người cảm xúc quá khích vì hút chì, máu uất bốc lên, đâm cấm khẩu giẫy đành đạch và ú ớ be be như có sự oan khiên, càng cần nói ra lời thì lại càng thất thanh đi”.

Xét ở phương diện kết hợp văn hoá Đông Tây trong một ngòi bút thì Nguyễn Tuân là một trong những trường hợp hiếm hoi: cái chất Liêu Trai nói ở đây làm cho các trang sách của ông có một vẻ thâm trầm cổ kính ít thấy trong văn chương thế kỷ XX. Cũng xin nói thêm là trước khi trở thành một hiện tượng nghệ thuật, kiểu tư duy này đã xuất hiện ở ông ngay trong đời sống hàng ngày.

Nhưng đây là một câu chuyện khá dài, chúng tôi sẽ xin trở lại khi có điều kiện.

 

 

35. Nguyễn Tuân và yêu ngôn

 

Mặc dù Khổng Tử thường dặn dò các môn sinh là đối với quỷ thần thì kính nhi viễn chi, và tốt hơn hết là đừng nói tới cái thứ mình không biết đó (bất ngữ quái, lực, loạn, thần), song đối với các nhà nho ở Trung Hoa và Việt Nam, những chuyện ma quái vẫn có một sức hút kỳ lạ. Nói nôm na là họ thường vẫn mê chuyện quỷ chuyện ma, không kém gì kinh sử! Do những duyên cớ cụ thể tác động hàng ngày, họ không thể nhìn trần thế một cách duy lý, như Đức Thánh Khổng Ngài đã khuyên, mà hay thích thêm vào đó một lớp sương mù huyền ảo. Trong cái cuộc sống ở ngoài mọi lề luật ấy, có người chết không chịu lìa hẳn cõi đời, vẫn muốn trở về tham gia vào mọi sinh hoạt trên dương gian, lại có nhiều những hồ ly tinh thèm sống, khao khát cảnh sống lứa đôi, thường hiện hình thành những cô gái đẹp quyến rũ đám học trò, do đó mà có những mối tình say đắm, khiến cho mỗi khi nghĩ lại, người ta lại vừa sợ vừa tiếc. Liêu Trai chí dị đã thành một thứ sách gối đầu giường của bao thế hệ. Đọc Tam Quốc, Thuỷ Hử để nuôi chí anh hùng, đọc Hồng Lâu Mộng để thấy cuộc đời hư ảo song bấy nhiêu thứ văn chưa đủ, người ta còn thích trở lại với Liêu Trai để biết thêm rằng ma sống lẫn với người, và đời sống cứ có cái vẻ thấp thoáng ẩn hiện không sao nắm bắt nổi. Cho tới các nhà nho Việt Nam đầu thế kỷ XX, thói quen đó còn được tiếp tục, mà người tiêu biểu là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Không phải ngẫu nhiên mà giữa trăm công ngàn việc, Tản Đà vẫn mê Liêu Trai và cuối đời đã dịch Liêu Trai với mấy câu đề từ nổi tiếng:

Nói láo mà thôi! Nghe láo chơi!

Dàn dưa lún phún hạt mưa rơi

Chuyện đời hẳn chán không buồn nhắc

Thơ thẩn nghe ma đọc mấy nhời

Cũng là một thứ vang bóng

Cũng như những Khái Hưng, Thế Lữ, Vũ Bằng…., Nguyễn Tuân thuộc loại trí thức mà trước khi mài đũng quần trên ghế nhà trường thuộc địa, đã được rèn cặp kỹ càng trong cuộc sống đậm chất nho phong của gia đình cổ. So với mọi người, ông chỉ có một chỗ khác, đó là con người nhà văn nơi ông sớm nhận thấy rằng phải tìm cách ghi lại những hình ảnh những âm thanh của cuộc sống mà cha ông mình đã trải, xem đó là một công việc cần kíp để chống lại sự tàn phá của thời gian. Và ông đã làm việc này một cách khá tỉ mỉ và chu đáo. Trong tập truyện ngắn liền với tên tuổi ông (tập Vang bóng một thời), ông hé ra cho thấy thế giới hôm qua không chỉ những nét đẹp, nét buồn, mà còn có cả những nét ma quái. Khoa thi cuối cùng kể lại một câu chuyện mang tính cách báo oán, vốn ám ảnh nhiều thi sĩ từ thời xưa và được họ dùng để giải thích mỗi khi thi trượt (do có lần làm hại một người đàn bà trẻ nào đó nên bị trả thù). Còn Trên đỉnh non Tản thì dựng lại không khí của một  “bồng lai tiên cảnh” mà con người chỉ biết trong mơ. Ta cũng chớ nên quên rằng Vang bóng một thời chỉ gồm 12 truyện, mà riêng trong đó, số truyện ngả sang không khí yêu ngôn đã lên tới con số 2. Loại nghệ sĩ như Nguyễn Tuân thường không làm việc gì có tính cách vu vơ, mà bao giờ cũng hướng sự sáng tác đi thành luồng mạch đàng hoàng. Bởi vậy, có thể nói là sau Khoa thi cuối cùngTrên đỉnh non Tản, một cách viết đã được vạch ra, để rồi tiếp tục với những Loạn âm, Đới roi, Rượu bệnh v.v…

Những sự thăng hoa

Những người có đọc kỹ tác phẩm Nguyễn Tuân đều biết rằng có một tham số luôn luôn có mặt trong công việc sáng tạo của nhà văn này, đó là nhu cầu độc đáo. Nghĩa là làm việc gì, ông cũng muốn làm một cách khác người. Trong nghệ thuật, ông sợ nhất là những lối mòn. Trong khi khai phá vào những con đường riêng, ông còn muốn để lại những dấu ấn riêng, đậm và mạnh khiến cho người khác nhìn qua là nhận ra ngay.

Khi viết loại truyện yêu ngôn Nguyễn Tuân cũng giữ được thói quen đó. Kể ra, một truyện như Loạn âm còn có tính cách hiền lành (một ông quan chính trực không muốn lợi dụng tình riêng để chữa sổ nhà trời), hoặc một truyện như Xác Ngọc Lam còn dựa trên một môtíp có phần quen thuộc (cô Dó nhập vai hòn đá, giúp cho nghề làm giấy ở làng Hồ xưa có được trình độ tinh tế). Song bên cạnh đó, đã có những truyện đọc thật sảng khoái, nó cũng ma quái, nhưng là ma quái theo kiểu Nguyễn Tuân, kỳ cục, dữ dội. Thiên truyện Rượu bệnh quả không hổ với lời đề tặng Kính gửi vong linh ông bạn rượu Nguyễn Khắc Hiếu bởi trong đó, sự say sưa được cực tả để biến thành cái gì phi thường: “Cô Cốm khom khom rót. Một chén. Bốn, năm chén. Mười chén. Ba mươi chén. Chén nào Bố Ô cũng chỉ làm một hơi. Nhanh và ngon như kẻ khát dọc đường vớ được nước suối rừng, vục nón xuống mà múc lấy múc để. Và rượu vào đến đâu là chân tóc ông già lại đẫm tuôn mồ hôi ra đến đấy, làm dầm dề cả vải gối. Nhiều dòng nước trắng cứ theo mỗi chân tóc mà tuôn mạnh ra. Hết cả hai dầu gánh cô Cốm mà Bố Ô còn gào rượu nữa. Rồi ông già bèn cười sằng sặc nét mặt thắt nhăn lại, thanh âm càng rộn lảnh mãi lên”. Trong Chùa Đàn, có đoạn tả Bá Nhỡ đàn cho cô Tơ hát, tiếng đàn thu hút hết tinh lực của người đàn, đến mức “mấy đầu ngón tay Bá Nhỡ sưng và bật máu”. Rồi đến đoạn “máu chảy ra nhiều quá (…) Máu trong cơ thể Bá Nhỡ cứ đều một dòng tuôn mà thấm lậu ra ngoài”. ấy là lúc “Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian (…) Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của buổi chiều đứt chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cảnh. Nó là sự khốn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím.

Lại có những trường hợp như thiên truyện Thạch tinh trong ruột một người có đoạn kể rằng gã đàn ông nọ, đi ăn cơm thiên hạ có nhiều sạn sỏi, lâu ngày đúc lại thành những hòn cuội trong dạ dày. “Kế đó, một lần ông ta dám thề nhảm với một người đàn bà và rủi gặp giờ thiêng, sau khi uống những giọt nước mắt của người đàn bà vào ruột, những hòn cuội kia bèn hoá thành thạch tinh. Nhưng thạch tinh ấy biết nói chuyện và làm hại người sống. Nó phá từ trong lòng người ta mà phá ra. Phá hại lúc còn sống chưa đủ, nó lại còn theo dõi đến lúc xuống huyệt nữa kia. Vì thế mà thi hài đã mai táng xong xuôi tưởng yên ấm, bỗng một đêm vào sáu tháng sau, nổ bật lên như có kẻ cắm cốt mìn vào mà bắn”.

Từ tiếng đàn thu hút từng giọt máu của con người, đến những hòn sỏi biết nói, toàn là những sự thăng hoa vượt bậc, những tưởng tuợng siêu hạng mà phi Nguyễn Tuân có lẽ không ai nghĩ nổi.

Một nhà nghiên cứu tâm lý đã nói rất có lý, đại ý rằng cái tưởng tượng, thật ra, lại chính là cái giống chúng ta hơn cả.

Cái thực và cái đẹp

ở phương Tây, có một loại truyện cũng thường kể về các nhân vật ma quỷ và các hiện tượng dị thường, được mệnh danh là truyện kinh dị. Các tác giả cổ điển ở đây là E.Poe, E.T.A Hoffmann, và có thể kể cả N. Gogol. Theo như cách nói của một số nhà nghiên cứu phương Tây (được dẫn lại trong tạp chí Văn học nước ngaòi số 4-1998) thì truyện kinh dị được xây dựng trên nguyên tắc là khai thác nỗi sợ. Bởi sợ là một nhu cầu tự nhiên của con người (tên bài viết của Đào Hùng, số báo đã dẫn).

Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi không thể làm cái việc lớn lao là so sánh loại truyện kinh dị ở phương Tây và truyện ma quái ở phương Đông, song nhân đây, chỉ muốn lưu ý thêm một khía cạnh quán xuyến trong các tác phẩm mang tính cách yêu ngôn của Nguyễn Tuân: chẳng qua, nó chỉ là một cách để giúp tác giả trình bày quan niệm của mình về thế giới thực và cái đẹp trên đời này. Nói một cách đơn giản cái thực thì bao giờ cũng lung linh ẩn hiện, mà cái đẹp cũng vậy, nhiều khi phải đi đến cùng của sự kỳ quái, người ta mới gặp được cái đẹp. Thành thử, đọc Nguyễn Tuân không có gì phải sợ, tuy nhiên, cái sự rờn rợn thì không thiếu, nó là thứu hiệu quả nghệ thuật mà trong văn học Việt Nam hiện đại, chỉ tác gải Vang bóng một thời mới biết làm và sự thực ông đã làm tới mức không ai bắt chước nổi.

 

36. Vang và bóng, biết tìm đâu?

Về những việc đáng ra có thể làm, mà chưa được làm, đối với Nguyễn Tuân nói riêng, với nhiều nhà văn nổi tiếng của chúng ta nói chung.

 

Sinh thời ông Nguyễn, đã có nhà phê bình tiên đoán người này mà nằm xuống thì hẳn là thiên hạ đi sau quan tài sẽ đông lắm. Sau quả có như thế. Nếu tính riêng thời tiền chiến, chỉ có thể nói Nguyễn là cây bút của một ít bạn đọc chọn lọc, nhưng từ sau 1945 tình hình có khác. Hơn 50 năm qua, ông đã là nhà văn của mọi người, người ta luôn  nghĩ đến ông như một nhà văn bậc thầy, đồng thời là một con người lịch duyệtt, tinh tế, tự trọng.

Từ sau đám ma rất to ấy, không ai còn nghi ngờ gì nữa, Nguyễn Tuân đã thuộc về hạng danh nhân của một thời. Theo chỗ tôi biết ở một số nước khác, một nhân vật cỡ như Nguyễn Tuân sau khi nằm xuống liền có ngay một cuộc tái sinh thật huy hoàng và đầy đặn.

Người ta phải lập ra ngay một uỷ ban hay một hội đồng gì đó, chịu trách nhiệm về di sản của người đã khuất. Uỷ ban này (thường có mặt cả đại diện gia đình) sẽ kiểm kê ngay những gì ông Nguyễn còn để lại, vào sổ từng đồ lề vật dụng ông Nguyễn vẫn dùng, miêu tả lại căn phòng của ông, tủ sách của ông, ghi chép về từng cuốn sổ tay ông dùng dở dang hay lá thư mới nhận. Sớm muộn ngôi nhà ông ở sẽ trở thành một nhà lưu niệm, một bảo tàng nhỏ, một địa điểm hành hương, để những ai có lòng ngưỡng mộ có chỗ mà đến tìm lại vangbóng của cái con người đã từng là tiêu điểm chú ý của một thời đó.

Trong hoàn cảnh hiện nay, một cuốn phim tài liệu làm riêng về một nhà văn thật không khó khăn gì. Cái chính là làm sao có một bộ phim hay, xứng đáng với tầm vóc của ông Nguyễn, cái đó mới khó. Song, căn cứ vào uy tín đương thời của ông Nguyễn với giới văn chương nghệ thuật nói chung, có thể tin chắc là nếu tính chuyện làm một bộ phim thật công phu, thật đàng hoàng, vẫn có khối người dám đứng ra nhận, và tìm ra cách để làm. Sự độc đáo mà ai cũng biết, cũng xem như nét thần thái ở con người ông Nguyễn, buộc người ta cũng phải tìm đến những ý tưởng độc đáo để đáp lễ.

Những loại sách khác nhau có liên quan đến Nguyễn phải được biên soạn: một (hay nhiều) cuốn tiểu sử, viết kỹ về đời ông; một (hay nhiều ) cuốn hồi ký của người đương thời, của gia đình và đồng nghiệp; tuyển các thư từ ông gửi đi và ông nhận; tuyển các công trình nghiên cứu về con người cùng sự nghiệp nhà văn bậc thầy này và nhất là tuyển tác phẩm của ông, loại tuyển có bình chú kỹ càng, không bỏ qua từng bài báo nhỏ nếu thấy nó có giá trị. Mặt khác, với những tác phẩm đáng gọi là lớn, tác phẩm để đời của ông (chẳng hạn Vang bóng một thời) sẽ có khảo chứng đến từng lần xuất bản.

Thế nhưng đối chiếu những mong mỏi đó với thực tế thì thấy mười năm qua, có việc chưa được tính: nhiều việc tính rồi chưa kịp làm; còn một ít việc đã làm thì quá sơ sài, đơn giản. Nói riêng về việc xuất bản sách:

Loại tác phẩm của chính ông Nguyễn

Lần đầu tiên tuyển tập Nguyễn Tuân được biên soạn là vào 1982. Tới 1994 một tuyển tập khác cũng đã được in ra, song chẳng qua chỉ là từ tuyển tập cũ “cơi nới” rộng ra một chút, chứ chưa thể nói bao quát hết Nguyễn Tuân, nhất là những của độc của lạ ông đã viết (độc ở đây vẫn làm cái nghĩa độc đáo đã nói). Tới quý II năm 2000, một toàn tập gồm 5 tập đã ra đời, song đã sưu tầm hết tác phẩm của Nguyễn Tuân chưa thì không ai dám chắc.

Loại tác phẩm có liên quan đến ông Nguyễn

Năm 1991, nhà xuất bản Hội Nhà văn đã có một cuốn sách mang tên Nguyễn Tuân, con người và văn nghiệp do nhà nghiên cứu Ngọc Trai biên soạn. Nhưng đó là một trong những năm khó khăn của giới xuất bản, thành ra nhiều tài liệu quý bị tước bỏ, cuốn sách in ra chỉ vẻn vẹn có 140 trang. Mãi tới năm 1997 này, một cuốn sách khác cũng mang tính cách tập hợp các bài mọi người đã viết về ông Nguyễn mới  được nhà xuất bản Văn học cho in. Đó là Nguyễn Tuân, người đi tìm cái đẹp (570 trang).

Cũng phải nói thêm là thời gian qua, một số bạn bè, người quen như Tô Hoài, Đoàn Minh Tuấn, Phạm Tường Hạnh.., thường vẫn nhắc nhở đến ông Nguyễn, có người đã ra  hẳn những đầu sách riêng, trong đó dày dặn nhất phải kể Cát bụi chân ai; song so với yêu cầu làm sống lại một nhân vật của lịch sử văn học thì một vài cuốn như thế chưa thấm tháp gì.

Nói cho đúng ra, những người có lòng với ông Nguyễn thì nhiều. ở chỗ riêng tư, người ta được biết rằng từ dăm năm trước ý định đấu sức lại làm một cái gì đó đối với di sản văn học của Nguyễn Tuân đã đến với hàng loạt nhân vật nổi tiếng như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà văn Tô Hoài… và các ông đã bàn bạc một số đầu việc. Nhưng do gặp trắc trở nên dự định vẫn chỉ là dự định.

Nhân đây, cũng xin nói rộng ra một chút về tình trạng sưu tầm và bảo quản di sản của các nhà văn cỡ lớn ở ta nói chung.

Trong một dịp nói chuyện riêng, nhà văn Trần Ninh Hồ – người được giao phụ trách khâu bảo tàng văn học ở Hội Nhà văn – cho chúng tôi biết: tất cả những gì liên quan đến Nam Cao và Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng và Xuân Diệu, Hoài Thanh và Đặng Thai Mai… đều đã được xem xét, song việc triển khai Công việc cụ thể cho một bảo tàng thực thụ xem ra còn khá chậm chạp. Tại sao? Theo Trần NinhHồ, cái chính là nhận thức của chúng ta chưa theo kịp với công việc. Mải chạy theo thời sự trước mắt. Lo làm phong trào cho nổi hơn là để tâm theo đuổi những hoạt động thầm lặng. Đại khái cũng hiểu rằng lịch sử là quan trọng nhưng làm gì để khôi phục lại bộ mặt của lịch sử thì không biết. Và hình như trước sau vẫn để cho tư tưởng bình quân ngự trị.

Chi tiền cho hội nghị thì sẵn sàng, chi tiền cho một đợt kỷ niệm thì tốn mấy cũng chấp nhận, nhưng chi tiền để xin mua lại cây can nhà văn này thường dùng, cái balô nhà văn kia đã đeo khi đi chiến dịch… thì còn ngần ngại. Mà công việc để sưu tầm và tổ chức lại di sản của một nhà văn nổi tiếng gồm hàng ngàn, hàng vạn chi tiết cụ thể như thế. Rút cục, mọi chuyện đang còn trì trệ, mà trường hợp Nguyễn Tuân là một ví dụ.

Không biết bao giờ, những danh nhân của đất nước mới có được cuộc sống thứ hai sau khi nằm xuống như tất cả chúng ta đều mong ước!

 

 

37. Nguyễn Tuân và thư viện

 

Nhà văn bậc thầy Nguyễn Tuân chẳng những là một người ham đi, mà còn nổi tiếng là một người ham đọc – đọc cả với nghĩa giữ lấy một nhịp sống tự nhiên lẫn nghĩa phiêu lưu lang bạt, đấy là điều nhiều người đã biết. Từ đây, có thể có người tỉ mỉ hơn một chút đặt câu hỏi: Nguyễn Tuân đọc sách ở đâu, cái dạ dày sư tử ấy tìm nguồn cung đốn cho mình ở đâu? Câu trả lời: trước tiên là cái tủ sách riêng của cụ Nguyễn. Chừng nào mà nhóm di sản văn học Nguyễn Tuân – hãy giả định là đến một lúc nào đó sẽ hình thành được một  nhóm như thế – đi vào hoạt động, tôi ngờ một trong những việc đầu tiên nhóm phải làm là có thể làm một cách hào hứng là miêu tả lại cái tủ sách cụ Nguyễn đã mua, đã nhận, đã gom góp cho mình trong căn buồng trên đường Trần Hưng Đạo, nơi cụ ở liên tục từ sau 1954 đến khi qua đời. Bản thân cái tủ sách ấy, sự hình thành của nó, cái lỉnh lỉnh dư thừa thiếu hụt của nó, và hơn thế nữa, lai lịch từng quyển sách, những  chữ ghi bên lề trang sách, tất cả gộp lại làm nên một thứ chân dung đích thực của tác giả Vang bóng một thời.

Nhưng còn một nguồn cung cấp thức ăn tinh thần cho nhà văn này, một nơi mà khi Nguyễn còn trẻ, còn lang thang làm báo thuê bên cạnh Tam Lang, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng… và nhiều người khác, ông hay lui tới – ấy là Thư viện trung ương nay là Thư viện quốc gia, 31 Tràng Thi Hà Nội. Hai đoạn văn ngắn sau đây mà chúng tôi sưu tầm được nói lên điều đó.

Đoạn thứ nhất trích ra từ tạp chí Văn nghệ ra ở Việt Bắc cuối 1949. Hồi đó tờ tạp chí cơ quan của Hội văn nghệ Việt Nam mới ra được hơn chục số, đã thấy cần phải làm ngay một số đặc biệt về Hà Nội. Ngoài phần sáng tác, có phần ghi nhanh Người Hà Nội đi kháng chiến, phác hoạ một số gương mặt người Hà Nội trên những nẻo đường Việt Bắc năm ấy: ông giáo sư trường Bưởi Trần Văn Khang và cụ Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng, anh Cai Lộc chuyên phát hành báo chí và bà Hậu Loan chủ nhà hát ở Cống Trắng Khâm Thiên, anh Phở tàu bay và anh Két chuyên pha “cốc tai” ở nhà Thuỷ Tạ Bờ Hồ. Và tuy gọi là ghi nhanh, nhưng chùm bài viết toàn là do những cây bút lừng lẫy một thời như Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Thế Lữ… thực hiện. Chính trong phần ghi nhanh này chúng tôi đọc được đoạn văn ngắn Nguyễn Tuân kể lại cuộc gặp gỡ với một người thủ thư, qua đó, thấy cả cảm tình của nhà văn với cái thư viện lớn nhất Hà Nội mà trước đó, ông từng lui tới. Cái lối dùng chữ Hán sành sỏi “thời thanh bình độc thư, sân tàng thư lâu lá mùa thu rụng từng cái một…” cùng là lối chơi chữ “bao giờ Tây xuống tàu Pháp”, cho phép người ta nghe ra trong đoạn văn ngắn cái giọng riêng của Nguyễn (khi đó, nhà văn mới 39 tuổi).

Thời điểm viết đoạn văn thứ hai lại còn lùi xa hơn nữa: thời Thư viện trung ương còn mang tên người sáng lập ra nó là Pierre Pasquier. Cả thảy chỉ có mươi dòng, giống như một đoạn sổ tay, nhà văn thoạt đầu chỉ ghi cho mình, chứ không có ý định công bố. Sau khi nói lên một chút bực bội của người ra thư viện nhiều mà không tìm thấy chỗ ngồi (cảnh sinh viên học thi thường chiếm hết phòng đọc chính của Thư viện Hà Nội đến nay vẫn được tiếp tục), đoạn văn ngắn này chốt lại ở cái hoài vọng sâu xa của tác giả là muốn tìm lấy việc nghiên cứu và sáng tác làm lẽ sống. Trong Thư viện Pierr Pasquier được đăng lần dầu trong một số tạp chí Tao Đàn ra năm 1939, chính cái số Lưu Trọng Lư cho in bài viết ngắn về Nguyễn Công Trứ ( Tên tác giả cả hai đều chỉ viết tắt, một bên là T. một bên là L. nhưng cái giọng riêng của tác giả thì không sao lầm được). Thời ấy, các nhà văn nổi tiếng sẵn sàng đóng góp những mẩu văn nhỏ như thế này cho các tờ báo, tạp chí mà họ yêu thích.

Đoạn thứ nhất: Gặp ông Nguyễn Văn Xước

Loạng quạng thế nào trên đường đi bến Quyển Sơn lại gặp ngay một cái bóng dáng yêu cũ kỹ của Thư viện trung ương. Cả một thời thanh bình dộc thư sân tàng thư lâu lá mùa thu rụng từng cái một bên đường Trường Thi. Thẻ đọc sách có ghi số cho nhà báo, hồi ấy Boudet ký. Sĩ phu ba ngày không đọc sách, soi gương mặt mũi đáng ghét nói chuyện nhạt nhẽo khó nghe. Anh Nguyễn Văn Xước, người vẫn lấy sách cho tôi mượn, làm Hành chính khu bộ cho biết rằng Thư viện trung ương vẫn không bị cháy và hỏi hồi này sách kháng chiến có dépô-légalđều đều không? Ôi bao giờ Tây xuống tàu Pháp để ta lại quay cái quạt trần trong phòng văn công cộng, ký tên vào phiếu lĩnh sách mà tĩnh tại hai buổi bạn với thánh hiền, phủi cái bụi thời gian trên gáy da mạ vàng?

Đoạn thứ hai: Trong thư viện Pierre Pasquier

Đã lâu tôi không tới thư viện. Lần thứ nhất tôi tới vào khoảng ba giờ chiều. Không còn một chỗ ngồi. Tôi phải đi về và tìm một cái cớ để tự an ủi mình: thanh niên ta là một thanh niên hiếu học, và là một triệu chứng đáng mừng cho tiền đồ nước nhà. Lần thứ hai tôi lại tới thư viện. Sớm hơn lần trước một chút, mà vẫn không may hơn: vẫn hết chỗ ngồi. Tôi lại tìm một cái lẽ để tự an ủi: ở trong sự học, không nên ganh tị nhau. Biết đâu sự chăm học của những chàng thanh niên ấy lại không quan hệ đến hạnh phúc của ta, của con cháu ta. lần thứ ba, tôi vẫn không ngã lòng, và cố nhiên là đến sớm hơn hai lần trước nhiều, nhưng mà vẫn như hai lần trước: thư viện hết chỗ ngồi. Lần này, tôi cố tìm ra một lẽ để cau có, và tôi đã có một lẽ rất chính đáng; tôi nhận thấy rằng đa số những người hàng ngày đến thư viện trung ương, chỉ là những cậu và  cô học sinh ban Tú tài, có khi họ chỉ đến đấy để làm nốt một bài tính bỏ dở từ hôm qua. Tôi không muốn nói: chỗ của họ không phải ở đấy, nhưng tôi muốn rằng những ghế ở thư viện trước hết phải dành cho những người đến đây để nghiên cứu, để tìm lục một cái gì mà không ở đâu có, những người lấy sự học làm mục đích cho sự học… Bao giờ ở trong thư viện của ta, mới được thấy cái cảnh tượng cảm động của những người suốt ngày lịm hồn đi trong sách vở, và nếu có xao lãng đi một vài phút là để nhá một miếng bánh tây hay nốc một hớp nước lã… Họ chỉ cầm lấy một chút hơi để rồi lại học. Sự sống đối với họ, chỉ là một phần nhỏ, và sự học là tất cả.

 

 

38. Cùng đón tết với ông Nguyễn

 

Đã gọi là nhà văn, xa gần ai chả viết về đời sống dân tộc, song trong các nhà văn Việt Nam hiện đại, nếu cần tìm một người biết từ những mảng sống, những thực tế ai cũng sống ấy, đưa lên thành nề nếp, thành một cái gì thuần thục kỹ lưỡng, tóm lại là biết xem xét đời sống ở bình diện văn hoá, thì người ta trước hết nghĩ đến Nguyễn Tuân (1910-1987). Cách sửa soạn cho một ấm trà ban mai hay cái nghi thức thiêng liêng mở đầu cho một ngày. Những đắn đo bàn bạc trước khi làm mấy cái đèn trung thu hay vẻ trịnh trọng trong việc đón cái Tết vốn chỉ được coi là dành cho con trẻ. Rồi ý nghĩa tìm thấy ở trò chơi thả thơ đánh thơ, quan niệm về nhân cách qua một kiểu viết chữ… Rồi đức hy sinh của một người chị cho một nguời em trai, niềm tự tin hay những kiêu hãnh chính đáng của một vị quan có học… Bao nhiêu nếp sống hàng ngày đã được Nguyễn Tuân ghi nhận! Thì dĩ nhiên là những ngày Tết nguyên đán cũng đã để lại vang và bóng của nó trong tâm trí Nguyễn Tuân, dù nhiều khi chỉ là những vang bóng thoáng qua. Lấy ví dụ như ở thiên truyện Hương cuội in trong Vang bóng một thời. Đặt bên cạnh những Chém treo ngành hoặc Ném bút chì có gươm khua, có máu chảy (dù là tất cả đã được làm một cách rất tài hoa), thì Hương cuội giống như một sự dềnh dàng cố ý cốt cho thấy cách đón xuân của cổ nhân cầu kỳ mà cũng thanh đạm đến như thế nào. Này là cảnh chuẩn bị Tết ở nhà cụ Kép: trong lúc đám dâu con đàn bà ngồi lau lá dong và làm bếp, còn lũ trẻ lo đánh bóng đỉnh đồng, lư hương, thì ông cụ chỉ loanh quanh bên cái chậu hoa, và để hết tâm trí tới việc sửa soạn bữa rượu Thạch lan hương. Quả thật, cái cảnh uống rượu nhắm với đá cuội tẩm kẹo mạch nha là mộtnét lạ của văn hoá Tết cổ truyền mà có thể đoán là khống mấy người thuộc lớp hậu sinh chúng ta được biết, và những trang văn Nguyễn Tuân thật đã có vai trò của những thước phim quay chậm để ghi lại tư liệu quý.

Sau Vang bóng một thời xưa đâu Nguyễn Tuân còn định viết Vang bóng một thời Tây. Rồi cái ý định ấy, cũng như nhiều dự định hay ho khác, đành xếp xó. Nhưng đây đó, nhà văn thích phác hoạ lại nếp sống một thời và mang lại cho nó vẻ thanh lịch của một hành động văn hoá, nhà văn ấy cũng đã kịp ghi lại vài nếp sống của xã hội ta khi chuyển sang thời Âu hoá, trong đó có cảnh đón Tết ở các đô thị. Đọc Một người cha về ăn tết (in trong Tuỳ bút I) người ta biết rằng vào những năm ba mươi của thế kỷ này, thành phố Hà Nội vẫn chỉ là nơi làm việc của nhiều công chức, chứ không phải gia hương của họ. Cuối tháng chạp âm lịch, hai mươi, hăm lăm gì đó – tuỳ cảnh tuỳ người – nhiều cặp vợ chồng giao nhà cho đầy tớ, rồi kéo con cái về quê ăn tết. Có thể là ở quê, họ lại sẵn sàng ngồi bên nồi bánh chưng cổ truyền suốt đêm để sống lại cái nền nếp vốn có của cha ông. Còn ở thành thị, nơi họ làm việc, thì cái nếp sống Tây phương cũng đã len vào thành những phong tục mới, nhuần nhị và thành thục. Trông nhà trong mấy hôm ấy, một trong những việc đám thằng nhỏ phải làm là để cái đĩa pha lê ra bàn giữa nhà cho bạn bè của chủ chúng (mà chúng thường gọi là cậu mợ) đến đặt danh thiếp.

 

*

*  *

 

Tuy nhiên cái độc đáo của Tết ở văn Nguyễn Tuân chưa phải là ở những mảng số được ông miêu tả ghi chép như vạy. Bởi lẽ, sự quyến rũ của văn ông là ở cái hình ảnh bao trùm của con người lãng tử, nên cái ấn tượng về Tết khiến người ta nhớ hơn cả cũng là cách xử sự kỳ lạ của chàng Nguyễn và những phiên bản của chàng vào những ngày mọi người khép mình chờ đợi. Mặc dù biết rõ là Tết sắp đến nhưng Nguyễn của chúng ta vẫn mải mê với việc vui chơi và sẵn sàng lang thang ở những chốn đâu đâu mà không hề đoái hoài tới việc tận hưởng mọi thú vui thông thường, kể cả việc về nhà sum họp cùng vợ con. Trong Những đứa con hoang, người ta gặp cái cảnh Nguyễn với hai người bạn xuống xóm vào một ngày tất niên, khi các nhà cô đầu tịnh không ai đi hát, và từ các bà chủ đến các cô con gái trong nhà có nghĩ gì, thì cũng là nghĩ đến chuyện làm ăn trong năm mới. Lại như câu chuyện Một người cha về ăn Tết. Cái việc tốt đẹp nói ở đầu đề thiên tuỳ bút, thực ra phải đâu là nằm trong dự định của Nguyễn mà chỉ là kết quả của sự tình cờ. Đang ở nhà bạn, định sống thêm một cái Tết tha phương, chợt trông thấy mấy đôi giày trẻ con, thế là lòng nhớ nhà của Nguyễn thức dậy và chàng mới ra ga, về quê trong chuyến tàu rạng sáng ba mươi. Tóm lại, sau trước, Nguyễn vẫn là Nguyễn, Tết chẳng qua là một dịp để con người ấy tiếp tục mài sắc cá tính của mình, càng mang tiếng chơi ngông, trêu ngươi mọi người, càng lấy làm đắc ý. Giữa cái xã hội Âu hoá nhố nhăng, để khẳng định cá tính, Nguyễn vẫn chỉ có một con đường độc đáo để đi, ấy là con đường đã in dấu chân của nhiều bậc lãng tử cuối mùa, mà ông Cử Hai trong Một cảnh thu muộn là ví dụ. Vâng, ông Cử Hai ấy cũng là một người đem cái tài hoa ra để đùa với cuộc đời. Đi dạy học thực tế với ông là một thứ “đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích”. Bởi vậy mới có cảnh “gần ngày Tết nhất, người trưởng tràng lúc thu xong sổ đồng môn, chỉ khổ lên vì đi tìm thầy”. Giữa ngày vui của mọi người, cái con người nghệ sĩ không chịu sống cho người khác và hùa theo với người chung quanh ấy sẵn sàng ẩn trong một mái đình vắng nào đó, để gọt cho hết một lắp thuỷ tiên. Người ta có thể không sống theo và trước tiên là không thích thú với cách sống cao ngạo trái khoáy này, song phải công nhận người giữ được cái đạo đó phải là người có cuộc sóng nội tâm phong phú, nội lực vững vàng, trong khi biết tìm cho mình những thứ thức ăn tinh thần không giống một ai, họ thật đã có cuốc ống vượt lên cái phàm tục mà kẻ sĩ xưa nay hằng ao ước.

 

*

*  *

 

Đơn độc ngay trên quê hương mình, trốn tránh mọi người, chỉ lấy sự lang thang chỗ này chỗ nọ làm vui, những tưởng ở Nguyễn Tuân đã chết hẳn con người bình thường. Nhưng không, đến khi có dịp xa quê thực sự, thì Nguyễn Tuân lại có một cái Tết thật buồn, đến mức người ta phải tự hỏi không biết đâu mới là bản chất thực của cái con người phiền toái đó. Trong Một chuyến di ông đã kể lại kỹ lưỡng nhiều chuyện liên quan đến cái lần nhà tài tử nghiệp dư là ông, cùng với một số bè bạn, sang Hồng Kông đóng phim. Cảnh ông ăn Tết ở xứ người chính là xảy ra vào đầu năm Dần đó (1939). Hiện lên trước mắt chúng ta là một bức tranh hai màu đối lập. Một bên là cảnh dân địa phương náo nức vui thú. Những tràng pháo dài hàng vạn quả đua nhau nổ dữ dội. Những gốc đào tươi tua tủa hoa nhạt và nụ thắm. Rồi đêm Hương Cảng đỏ rực hẳn lên với phiên chợ Tết “như cảnh bài trí trong một truyện thần tiên hoặc trong Liêu Trai…”. Một bên là cái tâm trạng buồn thiu của người lữ khách cô độc, mắt mờ hồn mê, tiền không có, bạn không có, đi giữa đường vui phải giơ tay nắm chắc lấy lòng can đảm của chính mình để khỏi chán chường thêm. Vốn là điều làm nên sự kiêu hãnh của người lãng tử, sự khác người với Nguyễn Tuân trong những ngày Tết năm ấy chỉ còn là một cái gì nặng nề, không sao chịu nổi. Trong lúc tỉnh táo, tác giả cảm thấy rất rõ là mình đang đánh mất mình: “Tôi chiều nay hằn học với số phận, dám cáu kỉnh với cả cuộc đời phiêu lưu mà xưa nay tôi vẫn ca ngợi. Chiều nay, tôi cũng muốn vứt đi một cái gì”.

Chưa bao giờ như trong Một chuyến đi, con người Nguyễn Tuân lại hiện ra yếu đuối đến thế, bất lực đến thế! Song cũng là một sự thực kỳ lạ: ấy cũng là lúc Nguyễn đáng yêu hơn bao giờ hết. Sau cái lần vỏ ngạo ngược, ngông nghênh hoá ra chàng Nguyễn vẫn rất mềm yếu, rất tình cảm, nghĩa là rất gần với mọi người. Có lẽ vì thế, chúng ta hiểu vì sao sau này tỏng tiếng súng chiến tranh khi cùng một đoàn kịch đi suốt từ Hà Nôị tới Nam Trung bộ, khi lội suối trèo đèo theo bộ đội đánh đồn, nhiều cái Tết trong văn Nguyễn Tuân lại hiện ra với những nét vui vầy đầm ấm, và những ngày hoà bình sau 1954, hầu như Tết nào ông cũng có những bài tuỳ bút vui Tết với mọi người. Vẫn với cách nói hóm hỉnh vốn có, ông bảo rằng đó là những lần mình ngả từ vườn đào nhà ra mấy cành để góp mặt với những ngày vui ở chợ hoa Hàng Lược. Một trong những bài tuỳ bút của Nguyễn Tuân hồi ấy độ một cái tên khá lạ lùng Tôi bán năm cành hoa tết.

 

 

39. Bóng hoàng lan mát rượi

Một trong những dấu hiệu của một tác giả lớn là người ta luôn muốn đọc lại tác phẩm của nhà văn ấy và mỗi thời đại lại có thể tìm thấy ở tác phẩm của ông một ý vị mới.

Không biết chữ lớn có hợp với Thạch Lam không (ông vốn không thích những gì đồ sộ, to tát), song tìm ra những ý vị mới ở tác phẩm của ông thì là điều luôn luôn có thể làm được, nếu người ta muốn.

 

So với các nhà văn tiền chiến Nhất Linh và Khái Hưng, Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Tuân thì Thạch Lam thuộc loại viết ít. Từ Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Ngày mới (1939) qua Theo dòng (1942), Hà Nội băm sáu phố phường(1943)… tổng cộng tất cả những gì ông viết ra đâu chỉ khoảng một ngàn trang sách. Tại sao lại có tình trạng ít ỏi như vậy? Vì ông mất sớm, khi mới 32 tuổi, ấy là một lẽ. Song lý do chính, phải nói là vì ông thuộc loại kỹ tính. Bản thân những điều ông  thường đề cập trong tác phẩm (tính cách cố hữu đời của dan tộc, những giá trị cao quý được tích tụ qua lịch sử, cái phần tốt dẹp không bị thời gian, không bị cuộc đời cơ cực làm phai nhạt..) đã đòi hỏi phải được đối xử một cách thận trọng chừng mực. Và cái giọng ôn tồn thường thấy ở Thạch Lam có lẽ lá thích hợp nhất để diễn tả những điều một người chín chắn như ông từng ấp ủ.

Đặt vào hoàn cảnh sống hiện thời, đôi khi người đọc hôm nay không khỏi cảm thấy văn phẩm của Thạch Lam có một chút gì như là lạc lõng. Ông nhất quyết không chịu chia sẻ cảm giác tốc độ mà con người hiện nay thường xuyên thể nghiệm. Trong khi chúng ta sống trong vội vã chụp giật, thì ông từ tốn, ý nhị. Trong khi con người hôm nay quay cuồng chạy theo lợi lộc trước mắt, viện đủ mọi lý do biện minh cho mình thì các nhân vật của ông đề cao đức hy sinh, thói quen sống chừng mực, gần như khổ hạnh, và không ngại nói đi nói lại rằng chỉ có một thứ mong manh mơ hồ, nhưng lại đáng ngưỡng mộ, đó là vẻ đẹp. Nay đang là thời nhiều người ngại ngùng trước mọi sự tinh tế. Người ta bảo nhau: “Cả trong đời sống lẫn trong sáng tác, phong cách cao quý, giọng văn thống thiết càng ngày càng bị quên lãng và thường khi bị đồng nhất với sự tô vẽ, giả dối”. Thật ra trong một khái quát như thế, không phải là không có rất nhiều sự thực. Đó là đúng với nhiều người. Nhưng vẫn phải trừ Thạch Lam. Người ta dễ nhớ đến ông và dù không tạo ra “những đợt sóng ồ ạt”, vẫn đọc lại ông đều đều. Đọc để hiểu thời ông sống, cái đó chỉ là một phần. Song quan trọng hơn, đọc để hiểu rằng bao giờ cũng vậy, bên cạnh cuộc sống trần trần trước mắt, con người ta phải biết nghĩ tới một cuộc sống khác. Trong mối quan hệ từ tốn với bạn đọc, văn phẩm của Thạch Lam dường như luôn thầm thì với chúng ta một điều gì đấy. Lúc này, đọc sách không chỉ có nghĩa là tìm cái giống mình trong văn chương, mà đọc sách đôi khi lại là cách tốt nhất để tìm tới những gì mình không có hoặc hình như có, nhưng để đâu không biết, không khéo thì đã đánh mất từ lúc nào. Buộc người đọc phải nghĩ lại như thế, thực không phải dễ dàng. Song nó cũng là một việc cần thiết mà văn học phải đảm nhiệm, nhất là khi người ta còn muốn tìm tới cái cơ may mà mọi người cầm bút thường vẫn ao ước, là tạo ra sự trường tồn cho trang viết.

 

 

40. Thạch Lam và Hà Nội băm sáu phố phường

 

Đến nay, Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam đã in lại đến bao nhiêu lần, không ai được biết. Lối làm xuất bản luộm thuộm của chúng ta là nguyên do của thiếu sót đáng tiếc đó. Tuy nhiên có điều chắc là hễ nhắc đến Thạch Lam thì cùng với nhiều truyện ngắn như Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Sợi tóc… cùng tập tiểu luận Theo dòng, người ta phải nhắc ngay tới Hà Nội băm sáu phố phường.

Dưới đây, để giúp bạn đọc hiểu thêm tác phẩm này, chúng tôi xin lưu ý một số chi tiết có liên quan đến văn bản và tác giả.

1. Trước khi được in thành sách, Hà Nội băm sáu phố phường đã được in trên báo, như một mục thường xuyên của tờ Ngày Nay (bài đầu tiên, in trong số 201 năm 1940).

2. Nhưng ban đầu, mục này không phải chỉ riêng có Thạch Lam viết, mà còn có sự đóng góp của các đồng nghiệp. Ngay số mở đầu nói trên, đoạn từ Người Pháp có Paris, người Anh có London…” ký tên Thạch Lam, nhưng đoạn Những biển hàng ( “Đã có nhiều người nhận ra rằng phố Hàng Đào là phố của loài vật”) lại ký Thiện Sĩ. ở đây, có thể có giả thiết Thiện Sĩ đây chính là một biệt hiệu khác của Thạch Lam, và đó là lý do sau này những đoạn Những biển hàng đó cũng được đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường.

Nhưng cũng xin lưu ý, hai chữ Thiện Sĩ còn xuất hiện trên Ngày Nay trong nhiều trường hợp khác. Lại có cả một cuốn Sách Hồng (viết cho thiếu nhi) của nhà Đời nay, mang tên Lên chùa, cũng ký tên Thiện Sĩ và chúng tôi không dám cả quyết là những bài này, hoặc cuốn sách này, bao giờ cũng có hơi hướng văn Thạch Lam mà đôi khi có phảng phất giọng văn Khái Hưng.

Vậy chưa thể cả quyết dứt khoát Những biển hàng do Thạch Lam viết. Xin coi đây là một nghi án, tạm xếp đấy đã.

3. Đến số 203 của năm 1940, thì xảy ra một tình huống rõ ràng hơn. Số này mục Hà nội băm sáu phố phường nói riêng về các vườn hoa Hà Nội. Đoạn này ký tên Khái Hưng và cố nhiên, sau này không thấy có mặt trong Hà Nội băm sáu phố phường.

4. Về phần mình, không phải bao nhiêu  bài Thạch Lam  viết về Hà Nội, đều đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường. Theo dõi Ngày Nay từ 1937 trở đi, chúng tôi còn gặp một vài bài ngắn, Thạch Lam đả động tới chủ đề này (xem phụ lục đi kèm). Hoặc ngay trong năm 1940, có lần trong mục Chuyện xa gần, cũng thấy xuất hiện những đoạn văn ngắn về Hà Nội ký tên Thiện Sĩ (chính là của Khái Hưng hay Thạch Lam, chúng tôi chưa xác định nổi).

Đến đây chúng ta có lý do để tiếc rằng Hà Nội băm sáu phố phường là cuốn sách hình thành sau khi tác giả đã qua đời. Nếu nó được chính Thạch Lam chuẩn bị cho in, hẳn đã có khác chút ít. Biết đâu Thạch Lam chẳng bổ sung thêm bài này bài nọ.

5. Người có công lớn trong việc tổ chức nên bản thảo Hà Nội băm sáu phố phường là Khái Hưng. Chúng tôi hình dung đóng góp của tác giả Nửa chừng xuân cho cuốn sách này của Thạch Lam trải ra trên hai phương diện: một là bàn bạc  với Thạch Lam về từng bài cụ thể, đôi khi có thể có sửa chữa thêm bớt, hai là khuyến khích Thạch Lam theo đuổi đề tài này đến cùng. Lưu ý là trong bản in lần đầu của Hà Nội băm sáu phố phường ở nhà xuất bản Đời nay, có kèm thêm lời Tựa mà Khái Hưng viết cho tập sách, đề ngày 20-VII-1943. Đây là một lời tựa viết rất hay. ở đó, người ta đọc ra không chỉ tình yêu của Thạch Lam mà cả tình yêu của Khái Hưng với Hà Nội, và điểm lại hình ảnh Hà Nội trong sáng tác của các nhà thơ cổ điển, vốn là một mặt mạnh của ngòi bút Khái Hưng (lâu nay, không thấy các bản Hà Nội băm sáu phố phường có in lời tựa này). Và lối đơn giản hoá công việc, tước đi khỏi tác phẩm những cái tưởng như râu ria vô bổ song thực ra rất có giá trị, là lối làm việc phổ biến, người ta đã làm với nhiều cuốn sách khác, chứ không riêng gì Hà Nội băm sáu phố phường.

 

Chung quanh hồ.

Cốckem năm

Một năm trước chung quanh Bờ Hồ chúng ta còn thấy bầy các hàng nước chanh, nước đá. Những tấm vải che đã cũ, những bàn ghế long đinh, cái nụ cười và tiếng mời chào của các cô hàng.

Một vẻ đẹp và một cái thú riêng của Hà Nội.

Nhưng ở những căn hàng ấy còn có một cái lợi nữa: một người có năm xu cũng có thẻ ngồi hưởng gió mát và ngắm cảnh được. Thực là một cái thú rẻ tiền, ai cũng muốn hưởng.

Nhưng bây giờ thành phố đã bắt những hàng ấy phải triệt đi và cho  làm thay vào cái nhà thuỷ tạ lộng lẫy để dành riêng cho những người… lắm của. Còn bọn ít tiền, các công chức, thợ thuyền, bây giờ chỉ còn cách đứng ngoài mà nhìn. ở trong thuỷ tạ, người ta bán đắt quá: bảy hào một cốc rượu, hai mươi nhăm xu một cốc nước chanh.

Thành phố đáng lẽ phải làm cho người nghèo được hưởng lợi, thì lại chỉ nghĩ đến cách tiêu khiển cho kẻ giàu. (Mà người giàu thì đã thiếu gì cách tiêu khiển). Nếu nhà thuỷ tạ nộp môn bài, thì những hàng nước chanh nước đá trước  kia cũng nộp môn bài.

Nhưng câu chuyện không phải ở chỗ ấy, vì thành phố có phải là một nhà buôn kiếm lợi đâu.

Chỉ còn cách là nhà thuỷ tạ bán hạ giá. Nhưng nếu bán thế, người thầu lại sợ lỗ vốn. Chi bằng bây giờ phá quách cái nhà ấy đi, và thành phố lại cho các hàng bán như trước. Có thế, dân nghèo ở Hà Nội mới được ngồi hưởng cái gió mát chung của hồ.

Liễu rủ bên hồ

Trong vòng hai năm nay, người ra mới thấy chung quanh hồ bắt đầu trồng liễu. Bây giờ những cây liễu đã nhớn, buông tơ rủ xuốn mặt nước rất đẹp. Thành phố đã làm một việc tốt để tăng thêm vẻ đẹp của hồ Hoàn Kiếm.

Nhưng sao trước kia không ai nghĩ đến trồng liễu? Chỉ thấy trồng những cây hoa thấp lè tè, và những cây gồi cao lênh thênh.

Tôi hiểu tại sao người Pháp lại thích cây gồi: vì cây đó gợi trong trí họ cái cảnh rực rỡ ánh sáng ở Phi Châu, hay ở ven biển Méditerrannée (Côte dazur); mà người Pháp ở xứ lạnh thì ao ước ánh sáng mặt trời lắm.

Nhưng đối với người ta, cây gồi chỉ gợi đến cái cảnh nóng bức khó chịu của mùa hạ. Vả lại, nó không có bóng mát. Khí hậu bên ra chỉ cần một cái vườn râm mắt như vườn kiểu Anh thôi. Còn những thảm hoa kiểu Pháp, phải ở nơi thời tiết đầm ấm mới thích hợp.

Lễ phép không ngại gì

Một vài người cảnh sát của thành phố cố nhiên không phải là tất cả – không có lễ phép trong khi làm phận sự mình. Họ chỉ quen mắng, quát người ta mà thôi.

Buổi chiều, dân thành phố ra Bờ Hồ hóng mát rất đông. Có hai vợ chồng người thợ vô ý ngồi lên bãi cỏ. Một thầy cảnh sát đến. Thấy người ta ngồi vào bãi cỏ cấm, đáng lẽ người cảnh sát ôn tồn bảo cho người ta biết thì phải. Đằng này không, người cảnh sát đến đằng sau hai người kia, nói một câu thô tục:

– Này, ngồi thế đã mát… chưa?

Thái độ lạ

Hôm gánh hát Phước Cương diễn ở Nhà Hát tây cũng có nhiều cảnh sát giữ trật tự. Nhưng xe cộ phải đi đến Hát Tây theo một đường.

Anh phu xe kéo tôi ngu đần quá, không biết lệ luật. Anh ta, cứ kéo ngay vào lối các xe đi ra. Có một thầy cảnh sát đứng đấy. Nhưng đáng lẽ bảo ngay cho anh phu xe biết, thầy lại đợi cho anh xe kéo vào quá xa, rồi mới quát:

– ứ ừ, mù! Đi thế kia à?

Tôi vẫn biết không phải tất cả những người giữ trật tự trong thành phố đều như thế cả. Tôi cũng biết rằng nhiều người mình nói ngọt không chịu nghe, chỉ ưa mắng.

Nhưng đó không phải là một lẽ để người ta bỏ quách lịch sự. Sự lễ phép chỉ tôn người ta lên mà thôi, không làm mất giá trị người ta bao giờ cả.

Vấn đề nhà ở

Kỳ hội đồng thành phố vừa rồi, các ông đại biểu dân đã bàn định lập ra những nhà để cho các viên chức thuê. Số tiền thuê mỗi tháng từ 15 đến 18 đồng; mỗi cái nhà làm mất ít ra là 5.000đ.

Như vậy, chỉ các viên chức nào lương khá mới hòng thuê được mà thôi. Còn các viên chức lương nhỏ số rất ít – và các thợ thuyền trong thành phố vẫn phải chui rúc vào những căn nhà tối tăm và bẩn thỉu như hang chuột.

ở bên Pháp vừa rồi, người ta mới dặt ra một tuần lễ gọi là tuần lễ xã giaohay tuần lễ lễ phép (semaine dubanité). Trong tuần lễ ấy mọi người phải theo đúng cách lịch sự, lễ phép trong bất cứ trường hợp nào và bất cứ ở đâu.

Người mình chưa mấy ai biết phép xã giao, giá có một tuần lễ như thế cũng hay. Nhưng tôi tưởng một tuần lễ không đủ, phải đặt ra một năm xã giao mới đủ.

Thạch Lam

Ngày Nay, số 65 ra ngày 27/6/1937.

 

 

41. Cảm xúc về đất nước

 

Đọc Hà Nội băm sáu phố phường, chúng ta đã có dịp cùng với Thạch Lam sống và lắng nghe nhịp sống của một vùng đô thị thuở thanh bình. Trước đó, đọc những truyện ngắn như Dưới bóng hoàng lan, Gió lạnh đầu mùa, Nhà mẹ Lê… chúng ta đã thấy nhà văn này mang nặng những tâm tình riêng và có một sự trân trọng riêng với những hồn quê mộc mạc.

Nhưng Thạch Lam – nhà văn với  một vốn liếng văn hoá vững chắc, cây bút có cốt cách tri thức điển hình – còn đi xa hơn thế. Trong mấy năm cuối đời, ông thường để cho cảm hứng trang trải tới những khu vực tưởng như trừu tượng hơn, mà lại là nơi cô kết mọi tình cảm của chúng ta – ông hay nói tới đất nước. Và con đường riêng được ông lựa chọn, là nói về nghệ thuật dân tộc. Trong những dịp tết, ông kể chuyện về những bức tranh Đông Hồ với “những màu tuy tươi thắm mà cổ xưa, màu cánh sen, màu xanh lá mạ, là bài ca hát của người và vật truyền nhau trên đồng ruộng”. Còn như đọc bài viết dưới đây, chúng ta sẽ được cùng ông trở lại với những tiếng hát dân gian – những điệu xẩm.

Ông phác ra khung cảnh ở đó người ta nghe hát. Ông chăm chú đọc ra những điều người ta trông chờ và gửi gắm qua các điệu hát.

Và nhất là ông tìm cách ghi lại những cung bậc tình cảm của mọi người – cả người hát lẫn người nghe –  trong cái cảnh diễn dân dã đó.

Nhà văn muốn thử làm một công việc khó khăn và hấp dẫn là mang lại cho tâm hồn dân tộc một hình hài, một khuôn khổ. Câu văn ông có chỗ lúng túng, ngập ngừng như chính ông cũng chưa biết làm sao ghi cho chính xác cái sự thực của tâm tình. Mặc! Ông vẫn cảm thấy phải nói ra bằng được những nỗi niềm bấy lâu đã nấu nung trong lòng mình. Cái hồn của đất nước được Thạch Lam gọi ra bằng những lời lẽ riêng. Ông đã nhuộm cho cảnh vật, cánh đồng, con đường, cây đa, bến nước…. một sắc thái riêng – sắc thái Thạch Lam.

Giờ đây, người ta có thể nghĩ khác về đất nước, so với những điều Thạch Lam đã nghĩ gần sáu chục năm trước. Nhưng lòng yêu đất nước của ông, thì tưởng như nói đi nói lại bao nhiêu cũng không đủ.

 

Dọc đường

Một con đường dài dưới sáng trăng. Hai bên dãy nhà lá thấp, mái tranh cũ như lẩn vào màu trời. Một cây đa lớn trong bóng tối thấp thoáng ánh trăng của vài chiếc bình vôi.

Đấy là một phố chợ nhỏ miền hạ du, một cảnh rất quen mắt ở chốn bùn lầy nước đọng. Trong các căn nhà lụp xụp và tối tăm ấy, sống những gia đình nho nhỏ Annam[3], những người nghèo hèn mà đời kiếm ăn thật là eo hẹp và chật vật. Những đêm sáng trăng này, họ vui vẻ. Tâm hồn giản dị cảu họ chịu ảnh hưởng của thời tiết một cách mật thiết, không tự biết. Cái vui của họ dễ đến, nhưng mà cũng dễ đi và tiếng cười của họ có khi nổi lên vô tư lự.

Họ xúm quanh lại ngồi nghe một đám xẩm già, đánh cây đàn bầu gỗ mọt, và ca hát những bài hát tự nghìn xưa vẫn lưu truyền trong dân gian, ai cũng thuộc nhớ, mà lần nào họ cũng vẫn muốn nghe. Những bài hát thương tiếc cái tình tuyệt vọng của anh chài lưới Trương Chi, ngậm ngùi cái tình bằng hữu của Lưu Bình, Dương Lễ, hay tán thưởng lòng can đảm của Thạch Sanh. Muốn cảm động được đám người mộc mạc ấy, những tính tình kia cũng phải thu về giản dị và cổ sơ – những tính tình mới có của người bước vào vòng lễ nghĩa, của những tâm hồn chất phác như những tâm hồn vẫn giữ chất phác kia.

Qua cảm động đến vui cười, chế nhạo và giễu cợt. Những bài vè quê mùa, những câu đố hóm hỉnh, những bài ca hơi chút đĩ thoã và trai lơ. Đánh tam cúc, Đi hái chè, Lấy chồng già, chồng trẻ… bao nhiêu tiếng cười thẳng thắn và hồn nhiên nổi lên khuyến khích và điểm vị cho câu hát. Và cái tiếng cười cợt trong câu hát ấy, hơi đơn sơ và thành thật, láu lỉnh như nháy mắt với người bên cạnh, giễu cợt có khi cay chua nhưng mà không ác ý, có đôi chút triết lý rộng lượng với những hèn yếu của người đời – đó là tiếng cười cợt Annam, của luỹ tre, của ruộng lúa. Lên đến cao nguyên, vùng rừng vùng núi, tiếng cười câu hát ấy đã thêm một chút man mác, rộng rãi nhớ thương, thêm một chút buồn xa xôi và tưởng nhớ.

*

*  *

Ai là người cúi xuống góp nhặt và thưởng thức những bông hoa trong nội cỏ đất nhà ấy, giữ lấy mùi hương thơm mát mẻ và kín đáo, từ xưa vẫn thấm nhuần cảnh vật quanh ta?

*

*  *

Một chuyến đò ngang, một xó chợ, một đầu đường… chỗ nào có dăm ba người nghe là có đám xẩm xoan lên tiếng. (Dễ thử đến có khi chẳng có ai nghe nữa, mà một ông cụ xẩm cũng vẫn gẩy đàn và ca hát, đôi mắt đưa lên như cố hình dung những bóng người tưởng tượng, và lắng tai nghe chờ đợi không biết đến bao giờ một tiếng đồng trên chậu thau..). Cái giọng hát xẩm thật là một giọng hát đặc Annam. Hay là tôi tưởng thế, bởi vì mỗi lần nghe cái giọng hát buồn buồn, tầm thường và quê mùa ấy, là mỗi lần tôi thấy như đè nén, quằn quại trên tâm hồn tôi, cái tâm hồn hèn mọn và nhẫn nại của giống nòi của cả đồng ruộng nghèo nàn và bạc bẽo phủ sương chiều. Tôi không muốn một bài ca hùng hồn, hăng hái, đầy những công việc xuất thế, anh hùng, bởi vì không phải thật là như thế. Tôi nhận ra cái hèn mọn, nghèo nàn kia, nhận một sự buồn mà người ta phải chịu vậy, nhưng mà tôi yêu mến, thiết tha cái linh hồn thật của đất nước ấy, là linh hồn của tôi, có những ràng buộc chặt chẽ, những rung động thẳng ngay đến bên trong. Cái giọng hát quê mùa, không có gì là cao quý nhẫn nại, không có gì là siêu việt, là cái giọng hát đã làm cảm động những người cùng giống với tôi, những người sống chật vật, khó khăn, nhưng mà vẫn vui vẻ, vẫn tin trời, không ghen ghét mà cũng chẳng thù hằn ai. Trên manh chiếu rách giải ngay mặt đất đó, đã diễn ra bao nhiêu lần cái cảnh sinh hoạt của người bình dân Annam. Tiếng đàn, nhị  một điệu nhắc đi nhắc lại, quen thuộc và êm ả, như trên cánh đồng lúa, ngày lại ngày, năm rồi qua năm khác, đem lại cũng chừng ấy công việc, chừng ấy vui buồn.

Đường, chợ chúng ta sẽ vắng lạnh, nếu không còn giọng ca hát nữa.

*

*  *

Làn khói rắc buổi chiều ở đầu làng, vì không có gió đưa, nên là là sát mặt đất để lẩn vào dải sương mù bắt đầu rơi xuống cánh đồng. Tiếng ếch nhái xanh rờn trên ruộng mạ. Và bóng người dãi qua cái quán gạch giữa cánh đồng, cái quán gạch giờ này trơ vơ và lạnh lẽo.

Bạn có nhận thấy cứ đến buổi chiều sương phủ, những làng mạc xa xa hình như thu bé lại, thấp xuống, thấp xuống để lẫn với đất ruộng, còn cánh đồng mênh mang bóng tối thì từ từ dâng lên ngang với chân trời? Giờ khắc ấy, ở đâu ra mà khắp cả, trên dưới và khắp bốn phương, hình như tiết ra ở cảnh vật, ở cây cỏ, ở ruộng nương, một nỗi buồn thấm thía, không đâu, một nỗi buồn vừa chán nản vừa chua xót, khiến người ta bỗng dưng thấy lạnh lẽo, thấy lẻ loi? Tranh giành, chiến đấu bấy giờ thấy vô ích và quá sức yếu ớt của mình. Phải dễ dãi, phải thân mật, để được gần gụi người khác cho thêm ấm cúng.

Đó là cái mạch buồn riêng của đất nước nhà, âm thầm như dòng suối dưới nội cỏ, cái mạch buồn hiu hắt chảy trong sông, hay xa xôi theo dải đê đến tận chân trời. Cảnh của ta tuy nhiều nơi thật là đơn sơ, bằng phẳng, nhưng có vẻ riêng biệt cám dỗ chúng ta. Chúng ta tha thiết mến yêu có lẽ vì cảnh vật như một tấm gương, và chúng ta thấy chiếu vào trong đó hình ảnh và tâm hồn của chính chúng ta.

Chúng ta nghèo nàn, nhưng chúng ta biết sự nghèo nàn ấy.

*

*  *

Dọc đường cái quan, ngày xưa, còn có chiếc cầu dịp đá, và bóng đưa của những cái cáng xanh. Những ngày rực rỡ, còn có võng lọng tưng bừng của một ông nghè về vinh quy, với cô gái quê má lúm răng đen, gọn mình trong chiếc võng, âu yếm nhìn ông tân khoa, chồng ta, và do công ta thức khuya dậy sớm hái dâu dệt lụa để chàng ăn học.

Bây giờ những cái đó đã mất rồi, mà trên đường, chúng ta chưa có cái gì khác thay vào. Chúng ta đi, hai bàn tay trắng.[4]

42. Một cách tìm về dân tộc

 

Khi nói đến thời tiền chiến, nhiều người chỉ nghĩ đó là thời kỳ xã hội ta “Âu hoá”, hội nhập với thế giới hiện đại. Thế nhưng những năm tiền chiến – và nhìn rộng ra, cả mấy chục năm đầu thế kỷ XX – cũng chính là thời gian mà ý thức dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các nhà trí thức chia nhau gánh vác những công việc mà một dân tộc muốn tự hiểu mình, tự biết mình, bắt buộc phải làm: Viết lại lịch sử. Sưu tầm thơ văn cũ. Nghiên cứu về tục ngữ ca dao, về tranh dân gian, về ca trù. Bàn lại về Cung oán, về Truyện Kiều v.v… Việc gì cũng được làm một cách thận trọng. Riêng các nhà văn nhà thơ cũng đóng góp vào việc này theo cái cách của riêng mình. Có người viết truyện theo lối tiểu thuyết hoá các sự kiện, các nhân vật đã sống cách đây vài thế kỷ. Có người ghi lại những nếp sống cổ truyền đang dần mai một. Có người đưa vào thơ mình cái hồn thơ dân gian duyên dáng, trữ tình…

Có thể nói trong suốt trường kỳ lịch sử, chưa bao giờ sáng tác văn chương lại trở nên gần gũi với đời sống bình thường của xứ sở như lúc này.

So với một số đồng nghiệp trong Tự lực Văn đoàn, trên đường trở về với dân tộc, có vẻ như Thạch Lam không có nhiều may mắn trời cho. Ông không có cái vốn dân gian bền chặt như Tú Mỡ, cũng không biết chữ Hán và thuộc nhiều sử sách cũ như Khái Hưng. Trong khi một người như Nhất Linh còn có lúc viết một thứ văn nghiêng hẳn về quy phạm cũ (Nho phong, Người quay tơi) thì Thạch Lam, ngay từ lúc xuất hiện, đã bộc lộ một cốt cách Tây học không giấu vào đâu đuợc. Chỉ cần quan sát kỹ câu văn của Thạch Lam, người ta có thể nhận ra sự gần gũi của ông với nền văn chương tiếng Pháp rõ rệt đến độ nào.

Nhưng Thạch Lam là một nghệ sĩ bẩm sinh, hơn thế nữa, một nghệ sĩ được đào luyện chắc chắn về văn hoá. Một người gọi là thấm nhuần văn hoá thực thụ, một trí thức chân chính, dù lớn lên trong hoàn cảnh nào, cũng sẽ nặng lòng với cái dân tộc đã sinh ra mình, cũng muốn trở về với cội nguồn, và có những xúc động sâu xa trước đời sống quê hương, nhất là khi quê hương đó đã phải chịu đựng nhiều đau khổ.

Và chúng ta, nếu chăm chú đọc lại Thạch Lam, sẽ thấy một vương vấn thường xuyên về dân tộc, như một ám ảnh. Ông để tâm suy nghĩ về quê hương, làng xóm, những người lao động nghèo túng vất vả, những nét phong cảnh như ngưng đọng tự bao đời. Và ông viết về những nét đẹp của quê hương như trong bài Tranh Tết mà sau đây bạn đọc sẽ đọc.

Với cái nhìn ngả sang xã hội học, trước tiên Thạch Lam tìm thấy ở những bức tranh tết (ở đây là tranh Đông Hồ) một ý nghĩa nhân sinh rõ rệt. ông yêu nhất ở tranh cũng như ở cuộc đời thường cái vẻ mộc mạc. Ông ân cần nhận ra rằng giữa người làm tranh và những người dân thường chẳng có sự khác biệt là bao, nhờ thế các tranh có được cái vẻ sống thật, nó là cái thi vị riêng mà chỉ các tác phẩm dân gian mới có. Còn như cái việc phần lớn các tác phẩm ấy mang tính cách khuyết danh, lại được ông xem như một nét đẹp; “Trong sự giấu tên kín tiếng của các nghệ sĩ xua ấy, có một cao quý và trong sạch đáng yêu”.

Song nói vậy, không có nghĩa là Thạch Lam chỉ biết có mơ mộng. Trong một bức tranh quen thuộc như Đám cưới chuột, ông ghi nhận một triết lý dân gian: nhẫn nhục chịu đựng, thích ứng để sống. Người ta cảm thấy khi viết những lời bình luận về bức tranh này, ở Thạch Lam vừa thoáng qua một nụ cười, vừa có một nỗi âm thầm đau xót, thông cảm.

4. Cái khó của một nhà văn khi viết về hội hoạ là phải diễn tả phải diễn ra bằng lời những điều nhà nghệ sĩ đã miêu tả bằng đường nét và màu sắc. Cũng là một điều dễ hiểu khi Thạch Lam đôi lúc tỏ ra lúng túng, và chắc chắn ông không bằng lòng với mình. Có điều, chỉ qua mấy câu bàn kỹ vào giá trị nghệ thuật của tranh dân gian, Thạch Lam vẫn tự chứng tỏ là ông hiểu khá kỹ về nghề vẽ và nhất là có một mỹ cảm tinh tế. Ông xa lạ với những gì vụng về, giả dối, lộn xộn. Ông thích những giá trị lâu bền. Khi Thạch Lam viết rằng “cái nghệ thuật phải tự nhiên và thật” thì đó không phải là nhận xét riêng của ông về tranh dân gian: đấy cũng là những tiêu chí nghệ thuật mà nhà văn này theo đuổi và đã có dịp bộc lộ qua các sáng tác.

Trong cái mỹ cảm tinh tế ấy của Thạch Lam, người đọc hôm nay nhận ra một phần quan niệm về cái đẹp của ông cha ta, của người Việt chúng ta nói chung. Và như vậy, đã có thể nói là trên con đường tìm về dân tộc, Thạch Lam (với cái vốn văn hoá Tây phương như đã nói ở trên) cuối cùng vẫn là một trong những người tới đích sớm.

Ghi chú về văn bản

Bài viết sau đây của Thạch Lam được viết ra đầu xuân 1941. Năm đó, cả Phong Hoá, Ngày Nay đều đã đình bản, tờ Chủ nhật ra được mấy số cũng bị rút giấy phép, nhóm Tự lực không còn báo trong tay, đành phải tổ chức một đầu sách gọi là Sách tết Đời nay. Lạ một điều là trong cuốn sách 48 trang khổ to như báo ấy, các tác giả Thế Lữ, Khái Hưng đều không ký tên thật của mình sau các bài viết. Và Thạch Lam cũng vậy. Chúng tôi chỉ căn cứ vào giọng văn và nội dung bài viết mà khôi phục lại tên tác giả.

 

Tranh tết

Những tranh ngày Tết người ta bán nơi nhà quê kẻ chợ. Đó là những tranh khắc gỗ, do mấy làng làm. Tranh vẽ nhiều cảnh, tất cả cuộc sinh hoạt của thôn xóm Annam, những bà mẹ và trẻ em thường gọi là tranh gà lợn. Đó là những tranh rất cổ của ta.

Những bản gỗ của các tranh ấy không rõ có từ bao giờ, và do ai vẽ. Trong sự giấu tên kín tiếng của các nghệ sĩ xưa ấy có một cao quý và trong sạch đáng yêu. Đó hẳn là những người bình dân vẫn sống chung lộn với những người khác trên đồng ruộng, cùng sống một cuộc đời, cùng làm những công việc im lặng và khó nhọc. Họ không biết họ là nghệ sĩ, và có lẽ, nếu không có một trường hợp nào đó, một kích thích gì đột nhiên, họ suốt đời không bao giờ vẽ cả.

Những người đó vẽ với tất cả tâm hồn của họ. Vẽ đối với họ tức là sống lại ngay chính cái đời họ sống. Những cảnh đồng ruộng, các công việc cày cấy, những cảnh trong gia đình hay ở sân sau, được hoạ trên giấy một cách rất linh động và đúng nét. Cái khoa học dáng điệu của họ nếu có thể gọi được thế, một sự tự nhiên, không xếp đặt trước thật là lạ lùng. Dáng điệu của người cày ruộng, người quạt thóc v.v… như sống thật. Tất cả cái thi vị, một mạc và đơn sơ của đồng ruộng, phô diễn trên giấy. Những gia súc, vì họ sống gần gụi và thân mật với chúng, trong nét hoạ cũng trở nên thân mật như thực. Cả đến các gia thần, ông Táo Quân, ông Thổ Công, cũng chỉ là những người cùng sống chung dưới một nóc, có liên lạc mật thiết đến cuộc đời của người.

*

*  *

Những nghệ sĩ Annam của thôn quê đó còn cả cái giễu cợt khôi hài ý tứ và chân thật nữa. Trong bức tranh Đám cưới chuột, hay Ông đồ ếch và học trò có thấm thía một cái duyên vui và rộng lượng. Những người giản dị ấy không mất lòng kính trọng của họ đối với mọi việc. Cái roi mây trong tay ông đồ hay cái hoả lò để quạt nước cho thầy biểu hiện tất cả cái tinh thần cốt yếu của buổi học, cùng một lúc với cái khôi hài thân mật của người vẽ.

Trong cảnh Đám cưới chuột tôi thấy sự mềm dẻo và, quen đi, dai dẳng của cuộc sống. Bao nhiêu triết lý trong việc dâng biếu cá cho chú mèo! Tất nhiên là muốn được an hưởng thì phải đút lót; trước khi đám cưới đi, người ta đã trù tính rồi. Mới đầu còn là sợ hãi bắt buộc, rồi sau mãi, biết đâu lại không thành quen đi, và lấy làm sung sướng và vui vẻ nữa. Ngài sẵn lòng nhận cá, thế là ơn huệ rồi.

*

*  *

Tôi muốn dừng lại lâu hơn ở những cảm tưởng mà các tranh tết ấy đã dậy trong trí tôi. Không phả là hoạ sĩ, tôi e sự phán đoán về màu, nét của tôi không đủ đúng đắn. Những bức tranh mộc mạc ấy, ngày tết, trang hoàng cho vách đất, của phên ở thôn quê, chỉ là hình cảnh của cái đời ấy. Những màu tuy tươi thắm mà cổ xưa, màu cánh sen, màu xanh lá mạ, là bài ca hát của người và vật truyền nhau trên đồng ruộng: cái gì tựa như một tục lệ hằng năm nhắc lại, mà không vì thế mất vẻ đáng yêu.

Tôi ước ao những tranh ấy cứ còn mãi. Những bản gỗ ấy bây giờ còn ở làng Hồ (Bắc Ninh). Hình như còn vài làng nữa, tôi không nhớ tên. Những màu sắc đều lấy trong thảo mộc cả. Bởi vậy không có cái sắc lánh và lạnh rắn của kim loại, vẫn dịu và mát tuy rất tươi. Màu đen rất ấm cúng, êm như nhung, và màu trắng thì ánh như xà cừ.

Mấy năm gần đây, đã có thấy các chợ bày những tranh lối mới, vẽ những cảnh bây giờ. Nhưng vụng về và giả dối, thật rõ cái không trật tự, sự lẫn lộn của các giá trị ở buổi này. Không phải ai cũng có thể vẽ được những tranh đẹp như cũ. Phải cần một hoạ sĩ mà tâm hồn cảm thẳng ngay với cảnh vật của đất nước, không cần đến sự môi giới của trí thông mình. Cái nghệ thuật phải tự nhiên và thật.

Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí mấy năm trước đây có khắc vài bản gỗ mà hoạ sĩ gọi nhũn nhặn là một cuộc thí nghiệm . Với tôi, sự thí nghiệm ấy đã thành công đầy đủ rồi. Trong mấy bức chụp đây, người ta thấy rõ hoạ sĩ đã đi đúng đường. Dáng điệu và các nét thật linh hoạt và phơi phới. Tôi không thể nói hết được cái giá trị cao về nghệ thuật.

Một hương vị cổ kính và mãi mãi hiện ra trong các tranh ấy. Cử chỉ của cô bé đội lá sen trên đầu để che mưa có tính cách gì bình dân và Annam lắm. Và cây bàng lá thu che bóng cho chị hàng rươi tự bao nhiêu năm trở lại.

*

*  *

Những tranh Tết kia là hình ảnh bằng màu sắc của cuộc sống Annam, cũng như những câu ca dao là nình ảnh thơ điệu. Hai nghệ thuật cùng một nguồn và nghệ sĩ nọ có khi là nghệ sĩ kia. Sống cùng một màu đất và cùng một gió mùa, họ lưu truyền cái gì là sâu sắc, bền chặt và tinh tuý nhất của tâm hồn chúng của dân gian, yên tĩnh hay biến đổi, nhưng biểu lộ trong tất cả trạng thái có khi rất nhỏ nhặt của cuộc đời.

43. Những ngày tết dưới con mắt

một người Hà Nội lịch lãm

 

Sự tiết chế, sự điềm đạm vốn là một đặc điểm thấy rõ ở văn chương cũng như con người Thạch Lam (1910-1942).

Biết điều đó, người ta sẽ không ngạc nhiên, khi nghe ông kể rằng ông thường đón Tết một cách không mấy vồ vập, đúng hơn là đơn sơ thanh đạm. “Tết của nhà nghệ sĩ vốn giản dị… một chai rượu mùi, một gói kẹo, một gói thuốc lá, thế là đủ. Chẳng phải vì nghệ sĩ không ước ao hơn, nhưng vì nghệ sĩ vốn nghèo”. Có điều, trong khi đứng tách riêng ra không chịu đua đả với mọi người về những tiện nghi vật chất, thì nhà văn ấy lại vẫn mở rộng lòng đón Tết, và cũng đủ hồi hộp rung động trước cảnh xuân sang.

Qua văn ông, người ta đọc ra những cảm giác thiêng liêng mà có lẽ người Việt nào cũng trải qua, cái thiêng liêng nảy sinh trước tiên do bắt gặp những vận động tự nhiên của trời đất, nhưng lại càng thiêng liêng vì được cùng với người thân sống lại những phong tục tập quán đã được cộng đồng dân tộc hình thành qua ngàn năm lịch sử.

Những chiếc bánh chưng hay là nét đẹp của phong tục

Những ai từng đọc Hà Nội băm sáu phố phường hẳn nhớ những tinh tế của ngòi bút nhà văn trong việc ghi lại các món ẩm thực hình thành của người dân thường Hà Nội. Trong khi quan sát mọi người chuẩn bị đón Tết, Thạch Lam cũng không quên nhắc lại những phong tục có tự ngàn đời, như việc gói bánh chưng chẳng hạn.

ồ, chiếc bánh chưng vuông vắn và đầy đặn, màu xanh như mạ non, gạo nhiễn ra như bông tuyết và giữ trong lòng bao nhiêu quý báu của miếng ngon: lượt đậu mịn và vàng đậm, những miếng mỡ trong như hổ phách, những miếng nạc mềm lấm tấm hạt tiêu. Và thoang thoảng một một chút mùi cà cuống, gắt như cô gái chua, sắc như mũi kim lạnh ”.

Trong những đoạn văn như thế, người ta không chỉ thấy sự thành thạo trong chuyện ăn uống, mà còn bắt gặp sự nhạy cảm riêng của tác giả trước cái quan niệm hàm chứa đằng sau các món ăn: Với người Hà Nội thanh lịch, mọi chuyện không được phép qua loa lấy lệ, hoặc xô bồ tuỳ tiện thế nào cũng được, mà phải kỹ lưỡng thận trọng, tuân theo những luật lệ nghiêm khắc và chắc chắn, bao giờ cũng gửi vào đấy một ý niệm về vẻ đẹp.

Từ đấy, toát ra cái tinh thần của một nền văn hoá độc đáo mà theo tác giả, nếu không bảo nhau giữ gìn, ta sẽ đánh mất.

Phố xá với những sắc đa dạng

Sau khi tự nhận rằng chỉ chuẩn bị cho Tết ở mức tối thiểu, Thạch Lam kể:

Thế rồi hai tay bỏ trong túi áo và cầu trời cho thời tiết hơi rét và hơi mưa bụi, tôi lẫn trong đám đông xuôi ngược trên hai bên hè phố”. Nói cách khác, niềm vui của ông là được đi ngắm cảnh thiên hạ đón Tết. Trong tầm nhìn của ông, có cây cảnh phố xá, lại có đủ loại mặt người. Trầm lặng và như muốn lẫn đi giữa chung quanh, song con người ông vẫn có sức bao dung rất lớn.

Qua những truyện ngắn như Cô hàng xén, ta biết rằng Thạch Lam rất hay nói tới sự nhẫn nại, sự hy sinh . Thì ngay khi đi trên đường phố nhộn nhịp, ông cũng không quên điều đó.

Các thiếu nữ trong ngày sắm Tết có rất nhiều vẻ đáng yêu. Đi đâu mà vội vàng thế? Về chậm sợ mẹ mắng hay sao? áo quần không kịp trang điểm, mái tóc không kịp vuốt ve, cho nên có một vẻ lơ đễnh, một vẻ xuềnh xoàng khả ái! Giờ này là giờ các cô đảm đang, đi mua đi bán, đem cái vui vẻ cho em trai và mẹ già, các cô hết lòng lắm. Chen lấn vào đàm đông, không sợ bị chèn ép xô đẩy. Đi guốc cao cho khỏi lấm gấu quần. Và nhất là tự nhiên và dung dị”.

Với tư cách tác giả Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, Thạch Lam dành ít dòng để nói về Tết của người nghèo:

“…ở ngoài bãi sông, Tết lại có một vẻ riêng đặc biệt. Trông đứa bé đội mũ bông, áo mới dài và rộng, đeo chiếc khánh mạ vàng, nhặt ngòi pháo đốt, thấy cả cái Tết ái ngại và nho nhỏ của cả một vùng”.

Và đây nữa, một nét Tết Hà Nội, dưới con mắt Thạch Lam:

Đêm 29 Tết, vào giờ trước giao thừa… có ai lên trước chợ Đồng Xuân, để nhìn những cái gì còn lại, những cái gì bị khinh bỉ từ chiều? Những cành đào xấu xí, ít hoa; những bát thuỷ tiên tơi tả, đã chuyền tay hết người này sang người khác mà không được ai mua, những chậu cây cúc và thược dược rã rời và lấm đất. Dưới mưa bụi, bùn đã vấy lên trên những cành đào, mai rải rác trên đường, bao nhiêu bàn chân dày xéo (…). Để trang điểm cho những căn buồng tiều tuỵ, những căn nhà lá nghèo nàn ở các ngoại ô đối với nhiều người, tuy xấu xí tơi tả mặc dầu, những thứ ấy cũng vẫn là biểu hiện của ước mong, của trông đợi”.

Một nét thần thái

Rồi bao nhiêu chuẩn bị đã xong, điều mọi người háo hức chờ đợi, mùng một, mùng hai, những ngày Tết thực thụ đã tới với bức tranh thiên nhiên thoảng qua một chút xao động lẫn những cảnh tượng sinh hoạt như ngàn đời vẫn vậy: Thạch Lam không nói gì khác những điều ai cũng biết, ấy vậy mà đọc ít dòng ghi chép của ông, người ta vẫn cảm thấy như tất cả vừa được nhận ra lần đầu.

Qua bãi cát rộông, con sông ngày Tết từ từ trôi mấy bông hoa nát không biết ở đâu về. Đây Tết rải rải khắp ven bờ. Một cái bến vài con thuyền đỗ, thế là cũng có khói hương cũng có hoa đào và xác pháo (…)

Ngoài trời lại mưa bụi. Xuân có vẻ đè nén, bao bọc và dằng dai:

Ngõ trúc lùn tùn tun ngọn trúc

Mưa xuân lún phún lụn ngày xuân.

Không hiểu tại sao hai câu thơ không nhớ của ai ấy thật đúng cái cảm giác tôi có lúc mùa xuân”.

Câu chuyện về những ngày Tết dưới con mắt Thạch Lam tới đây đã có thể dừng lại. Song có một điều người đọc không khỏi vương vấn:

Hình như nhân nói về một ngày lễ cổ truyền, Thạch Lam vừa động chạm tới một cái gì lớn hơn thuộc về thần thái của sinh hoạt cộng đồng, nghĩa là những yếu tố trường tồn trong thời gian. Và ai cũng muốn thử cắt nghĩa tại sao đến nay nhiều người còn rất thích văn Thạch Lam, có lẽ phần nào tìm được câu giải đáp: Lớn lên trong cảnh đất nước bị thực dân thống trị, song lại tiếp nhận được một cách nhuần nhị nền văn hoá Pháp, Thạch Lam (cũng như nhiều đồng nghiệp đương thời) đã biết hướng toàn bộ tâm tình vào việc yêu mến, tìm hiểu, khám phá cốt cách dân tộc. Mà cái cách trở về với dân tộc của Thạch Lam thì chân thành và cảm động. ở đây mọi tình cảm không ồn ào song lại rất thấm thía, càng hiểu cái nghèo túng chật vật của hoàn cảnh người ta cảm thấy nặng lòng với đất nước đã nuôi nấng mình lớn lên. Đó là cách nhìn, là tấm lòng của những trí thức chân chính.

 

 

44. Một số báo tết

 

Trong thời kỳ hưng thịnh của mình Tự lực Văn đoàn có hai cơ quan ngôn luận là Phong HoáNgày Nay: Phong Hoá xuất bản sớm hơn mang tính cách mở đường, nhiều khi ngả sang đấu tranh gay gắt. Trong khi, Ngày Nay được hình thành muộn hơn và do đó, đằm hơn, chín hơn.

Tên tuổi Thạch Lam đã xuất hiện trên Phong Hoá nhưng với Ngày Nay mới thật là cuộc trình diện đầy đủ. ở đây, có thời gian ông làm thư ký toà soạn, lo việc sắp xếp bài vở và thực sự đã mang lại cho tờ báo một sắc thái riêng: sắc thái của một ấn phẩm chuyên về nghệ thuật.

Công việc chuẩn bị cho những số báo Tết càng cho thấy rõ điều đó.

Nhìn vào Ngày Nay số 198, số Tết 1940, trước tiên chúng ta bắt gặp mấy lời rào đón mà dù Thạch Lam không ký tên, ta cũng đoán ra chỉ ông mới viết như thế.

Ông thận trọng giới thiệu bức tranh phụ bản mang tên Dưới hoa do Trần Văn Cẩn vẽ, cho thấy rằng đây là “Một bức vẽ có giá trị, những nét uyển chuyển hợp với các màu nhã và êm dịu”, bởi lẽ, qua những hình ảnh được phác hoạ “hai thiếu nữ, tóc còn buông xoã, mình hơi gầy vì còn non trẻ đứng tựa dưới cành hoa phù dung” người ta có được “một cảm giác mát mẻ và tươi sáng”.

Ông dừng lại kỹ hơn ở bức tranh dùng làm phụ bản cho báo, bức Ba thiếu nữ của Tô Ngọc Vân. Nói về một tác phẩm mà như Thạch Lam gọi ra cái thần của người nghệ sĩ (cố nhiên đây là Tô Ngọc Vân trước 1945): “trong nét bút và màu sắc của hoạ sĩ này, có phảng phất một đằm thắm xác thịt, một tình yêu các hình thể nõn nà vừa đến độ nẩy nở. Một vài đường nhịp nhàng và hoạt động, sự hoà hợp của vài màu tươi thắm, thế là hoạ sĩ đủ khiến chúng ta có một cảm giác hơi say mê và ân ái. Và nhận thấy cùng một lúc cái nghệ thuật chắc chắn và cái thông minh ý nhị của hoạ sĩ”.

Tiếp đó, Thạch Lam trình bày qua về cách sắp xếp bài vở,  về những khó khăn trên các phương tiện in ấn mà toà soạn đã phải tìm cách vượt qua để mang lại cho tờ báo một tính cách hoàn hảo.

Đọc những dòng này, ai người có lúc vào trong hậu trường bếp núc của việc làm báo Tết, ắt hẳn cảm thấy được thông cảm: ra cái sự làm báo Tết, thời nào cũng vậy. Không phải ngẫu nhiên mà trong một bài viết ở số Tết ấy, Thạch Lam lấy câu cách ngôn ả Rập sau đây làm đề tài:

Hưởng, đấy là khôn ngoan;

Khiến hưởng, đấy là đức hạnh.

Đặt vào hoàn cảnh của số báo, câu này có nghĩa: làm cho người khác vui, chuẩn bị những món thức ăn tinh thần ngon lành thanh sạch cho bạn đọc thân yêu, đấy là đạo đức của người làm báo. ở chỗ này, mỗi người cầm bút giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn Thạch Lam, những người chí chút kỹ càng, lấy sự tận tuỵ hy sinh làm lẽ sống của chính mình.

Chẳng những đứng ra đạo diễn chung cả số báo, mà nhiều lần, khi làm báo Tết, Thạch Lam cũng đã góp vào đấy những bài viết riêng. Có khi ông viết về tục đi hái lộc, tục gói bánh chưng, có khi ông trình bày những suy nghĩ riêng về những bức tranh Đông Hồ – vốn là một “tài sản” của vùng Kinh Bắc xưa. Có khi đơn giản hơn mà cũng trực tiếp hơn, ông trình bày những suy nghĩ của mình về mấy ngày Tết. Có vẻ như ông muốn chia sẻ với chúng ta một ít tâm tình và gợi ý: nên hiểu nên sống mấy ngày Tết ra sao.

Bài viết Nghệ thuật ăn Tết tiếp sau đây là một trong những trường hợp đó.

Tuy ngắn, song Nghệ thuật ăn Tết được viết chặt chẽ, súc tích và mang đầy đủ ý vị riêng vốn có ở ngòi bút Thạch Lam, một ngòi bút thiên về cảm giác và thường có những xúc động giàu chất thơ.

Xin lưu ý thêm là cả mấy cái vi nhét nho nhỏ in kèm vào bài cũng là của chính Thạch Lam.

 

Nghệ thuật ăn Tết

Hưởng, đấy là khôn ngoan; khiến hưởng, đấy là đức hạnh

(Cách ngôn ả-rập)

Ngày Tết, đối với nhiều người, chỉ có thú vị khi nào nghĩ lại Người ta thường hay cùng nhau nhắc tới những Tết năm ngoái, năm xưa với một vẻ mến tiếc âu yếm, lẫn với đôi chút ngậm ngùi. Nhất những Tết ngày còn nhỏ… Lúc ấy, cùng với những nỗi vui ngày Tết đã qua, còn vướng niềm thương tiếc tuổi niên hoa, cái tuổi mà người ta nhận là vô tư lự”, ngây thơ và sung sướng.

Nhưng nỗi nhớ tiếc ấy chẳng ích lợi gì, mà lại ngăn chúng ta không toàn hưởng được thời khắc hiện giờ. Đậm đà, mạnh mẽ hơn bao nhiêu là sự hưởng thụ ngay hiện tại, thêm vào cái thú hưởng những giờ vui, cái thú vô song của sự mình biết mình đương hưởng.

Ngày còn ít tuổi, tôi không hiểu biết được cái thú uống trà. Chén trà thơm lúc đó như sao bằng được những mộng đẹp tôi đang mơ tưởng trong lòng. Bây giờ tôi đã có biết rồi và thỉnh thoảng một buổi sớm hay trưa, nâng chén trà lên để nhìn qua hương khói. Hưởng hương vị chén trà thì ít, nhưng hưởng cái thú ở đời, và nhất là hưởng cái giờ khắc nghỉ ngơi, nhàn nhã, mà tự mình cho phép (người ta chỉ có thể hưởng được cái khoái lạc của nghỉ ngơi, khi biết cái nghệ thuật nghỉ ngơi cũng như biết cái nghệ thuật làm việc).

Tôi hiểu là vô ích và điên dại cuộc theo đuổi mộng ảo không cùng, việc lần để ngày lại ngày hạnh phúc. Tôi hiểu rằng hoa nở sớm nay cũng tươi đẹp chẳng kém hoa nở ngày mai, thời tiết xuân nay êm dịp hơn xuân bao giờ hết, và trời trong cùng ánh nắng kia hiện giờ đã đẹp vô ngần…

Tết! Còn dịp nào trong đời ta nhiều thú vị vui tươi hơn nữa. Ngày Tết nhắc ta nhớ lại những Tết đã qua, và khuyên ta an hưởng ngay cái Tết bây giờ. Đêm giao thừa thời gian qua nghỉ bước trên từng cao[5] là giờ khắc say sưa êm dịu nhất. Hưởng mùi thơm thuỷ tiên, cánh hồng hoa đào nở, hưởng làn khói trầm vấn vít đủ lên cao. Hưởng đi, trong cái khoái lạc của sáng suốt, trong cái minh mẫn của tinh thần, trong sự thư thái thảnh thơi của lòng bình tĩnh. Tiếc thương như gia vị và mong mỏi như làm ấm nóng cái thú vô cùng.

Rượu sánh trong cốc pha lê trong trộn mùi khói pháo với hương thuỷ tiên. Tiếng pháo nổ vui từ nhà nọ sang nhà kia, liên tiếp, đi mãi vào trong đêm để làm vang động bầu không khí xuân của khắp cả các gia đình. Đó là tiếng hiệu lệnh của sự thông đồng chung hưởng.

*

*  *

Lúc đó mỗi nhà đều uống rượu thưởng năm mới. Rồi chiếc bánh chưng đầu năm mang lên, xanh mịn trên đĩa trắng. Bánh chưng gói khéo thì vuông và chắc rắn: gạo  mềm và nhiễn, nhân đậu và mỡ quánh vào nhau. Chỗ nạc thì tơi ra như bông gạo. Có nhà gói lắm nạc, nhưng nhiều mỡ vẫn ngon hơn: mỡ phần, chỗ giọi, lúc chín thì trong, và không có thớ. Bánh chưng kể mặn là phải vị. Nhưng có dăm bảy chiếc gói ngọt cũng hay. Chỉ khó làm sao cho đừng sượng, và đường với đậu phải biến với nhau mà thôi.

Tưởng lúc xén đũa đưa miếng bánh chưng lên, thoảng mùi lá dong thơm và mùi nếp cái, ăn với dưa hành trong như ngọc thạch, hoặc với củ cải đậm và ròn như pháo xuân! Đó là tất cả hương vị của cái tết Annam, ngày nay và ngày xưa.

*

*  *

Sáng mồng một, chúng ta uống rượu và ăn mứt. Rượu hẳn là phải rượu tây: những thứ vang cũ ngọt như Porto, nồng chua như Vermouth, hay say như Cognacq. Uống những thứ ấy thích hơn liqueurs. Nhưng sao ta không có rượu ngon của ta? Tiếc vì bây giờ cái gì của người mình cũng vụng về và giả dối. Còn đâu thứ rượu cau có tiếng ở Hoàng Mai, thứ rượu cúc nổi danh ở tỉnh Bắc? Cái hào nhoáng, cái lộng lẫy bề ngoài đã thay cái chân thực, cái cẩn thận của người xưa. Đơn sơ và cẩu thả đã cướp chỗ của tốt bền, ở tất cả những sản phẩm của nước mình.

*

*  *

Mứt ngày trước cũng ngon và khéo léo hơn mứt bây giờ. May gần đây, sự làm đã khá. Đã có mứt sen Cự Hương, mứt khoai Việt Hương, vị cũng nhã, mà trình bày lại sạch sẽ, tinh tươm. Đem làm quà ngày Tết kể cũng tạm được.

Mứt phải đủ ngũ vị: ngọt, bùi, đậm, béo và cay. Thứ mứt gừng cay là quý nhất. Chỉ tiếc thay mứt gừng ngoài Bắc thô và mạnh quá. Tôi ước ao được một ngành mứt gừng ở trong Trung mứt gừng của Huế, làm bằng mầm gừng non và cả nhánh, trong như ngọc và cay, mềm dịu cũng như con gái Huế.

*

*  *

Thế rồi đi du xuân ngày mồng một, nhìn cây nêu phấp phới trước các nhà, tiếng khánh sành reo theo gió. Một cuộc hoà nhạc của sắc màu: quần áo mới của bầy trẻ, xác pháo đỏ trên gạch rêu, màu hồng nhạt hay đỏ tươi của câu đối giấy dán trên cổng, và màu củ cẩm (hay cánh sen) trên những tranh tết nhất cái màu tím mát ấy, màu của đất nước Annam, của thời xưa chân thật mà không bao giờ nhìn tôi không thương nhớ ngậm ngùi…

Trong lúc đó, trời xuân đầy mây thấp và gần gụi, thời tiết êm ả như đợi chờ, gió xuân nhẹ như hơi thở, và cây cối đều nở mầm non, lộc mới tất cả cái gì như đầm ấm, như dịu dàng. Còn hưởng cái thú nào man mác và thanh cao hơn nữa?

*

*  *

Cho nên ngày Tết, tôi mong các bạn cùng vui vẻ tươi sáng như ánh mùa xuân, trong khi lần giở những trang của tập báo vì các bạn này.

Thạch Lam

 

45. Cái đẹp nhân hậu

 

Không phải nhà văn tiền chiến nào cũng thích nói đến cái đẹp. Đọc các truyện ngắn truyện dài của Nguyễn Công Hoan hay cả loạt phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng, người ta thấy cái đẹp hầu như vắng mặt. Có vẻ nó giống như một thứ hàng xa xỉ, không dây dưa gì đến cuộc đời nhếch nhác này, và để được chân thành trong câu chuyện, tác giả ngầm bảo rằng, tốt hơn hết là không nên nhắc tới nó làm gì (!?)

ở một ngòi bút như Thạch Lam (cũng như ở Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh…) thì tình hình hoàn toàn ngược lại.

Từ những bài báo nhỏ đến những truyện ngắn cô đọng, viết văn với Thạch Lam đồng nghĩa với việc săn sóc tới cái đẹp, và nhắc nhở về sự có mặt của nó với mọi người. Ông nói tới vẻ đẹp trong thiên nhiên: buổi trưa vắng vẻ ở một làng quê hay ban mai yên ả ở một xóm nhỏ trung du (Dưới bóng hoàng lan, Nắng trong vườn). Ông nói tới vẻ đẹp hồn hậu trong xúc động đơn sơ của một thanh niên lần đầu làm cha, hoặc cái cảm giác lạ lùng của mấy em nhỏ trong một ngày chớm rét (Đứa con đầu lòng, Gió lạnh đầu mùa). Đối với những con người khiêm nhường mà cuộc sống bị đè nặng bởi những lo toan hàng ngày, Thạch Lam biết tìm ra những nét tính cách cao quý, nó là nhân tố làm cho người ta tồn tại và nhờ vậy, lại toát lên một vẻ đẹp riêng (Nhà mẹ Lê, Tối ba mươi). Một nét quán xuyến trong cách nhìn đời của Thạch Lam: tác giả luôn luôn mách thầm với chúng ta rằng vẻ đẹp là một cái gì chỉ hiện ra mong manh thấp thoáng nên dễ bị bỏ qua. Ông viết trong Theo dòng: Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc  của nhà văn là phải hiểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ, tìm cái đẹp kín đáo bị che lấp trong sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức

Quan niệm cổ điển và một thoáng gặp gỡ Đông Tây

Năm 1940, khi Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được in ra lần đầu, Thạch Lam sớm có bài giới thiệu quyển sách trên báo Ngày Nay (số ra 15-6-1940). Bài báo đáng được lưu ý, không phải chỉ vì nó đã nói đúng về Nguyễn Tuân mà còn là một dịp để Thạch Lam tự bộc lộ. Chỉ trong khuôn khổ chưa đầy 1000 chữ, ông đã 5 lần nhắc tới cái đẹp và những từ ngữ ông dùng để đi kèm chính là những thuộc tính mà theo ông có liên quan tới cái đẹp chân chính. Đó là vẻ nên thơ, sự cao quý, cái có ý nghĩa rồi cả sự khoáng đạt và một chút nồng nàn. Cũng có đến mấy lần ông nhắc lại hương vị cũ kỹ và nhẫn nại của một sự hy sinh hoặc tâm tình yêu mến dĩ vãng, tiếc thương và muốn trở lại những vẻ đẹp đã qua.

Cũng từ đây, người ta đọc ra một quan niệm về cái đẹp mà tác giả Gió đầu mùa theo đuổi. Trưởng thành từ một cốt cách học trò, người viết văn này dễ rung động với những gì thấp thoáng, dịu nhẹ. Ông tỏ ra xa lạ với những vẻ đẹp chói chang, quyến rũ, hoặc là cái lỗi có gì mang bày hết cả ra ngoài, phô phang lộ liễu. Hình ảnh mà ông thích nhất là bông mai trong trắng. Trong sự kín đáo và ẩn nhẫn biết điều, vẻ đẹp ông hay nói tới thường hàm chứa một sức sống tiềm tàng. Một quan niệm như thế phải nói là có nhiều chất cổ điển. Giữa thế kỷ của văn minh công nghiệp trong cái thời mà máy móc và các mốt thời trang bắt đầu du nhập và ngày càng bành trướng trong xã hội, văn chương Thạch Lam có vẻ là một thứ dòng nước ngược đưa người ta trở lại với quan niệm về cái đẹp của phương đông hoặc gần gũi hơn, trong cách hiểu về cái đẹp thường thấy ở ông cha ta. Vậy đâu là tác động của yếu tố thời đại đến ngòi bút này? Thực ra ở đây yếu tố thời đại vẫn có, nhưng cách ảnh hưởng của nó tới Thạch Lam lại có những nét đặc trưng riêng. Nên nhớ là giữa nền văn hoá phương Đông cổ truyền không phải chỉ có khác biệt mà còn có nhiều nét chung. Văn hoá cổ điển Pháp cũng nổi tiếng vì sự trong sáng, sự tinh tế và tinh thần nhân bản. Thứ nữa khi tiếp nhận nền văn hoá này, lớp người như Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, hoặc Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân… đã đứng vững trên mảnh đất quê hương ruột thịt. Trong sách vở mà nhà trường dạy học cũng như trong những quyển sách họ đọc ở ngoài đời có những lời lẽ khuyên họ phải biết trở về với cội nguồn dân tộc. Về phần mình, trong sự sáng tác văn chương, Thạch Lam sớm tự xác định cho mình một con đường riêng. Ông cho rằng, có một công việc mà một ngòi bút tự trọng nên đảm nhận, đó là làm sống lại cái đẹp cái thực vốn là những tính cách cố hữu trong nền văn hoá cổ truyền. Người và cảnh ông miêu tả vì vậy thường có thêm chiều sâu trong thời gian. Cái đẹp được ông chắt chiu gạn lọc. Tuy không nói ra trực tiếp, nhưng từ những gì ông tha thiết, thấy toát lên một lời giáo huấn kín đáo: nếu không được trân tọng giữ gìn, cái đẹp vốn đã mong manh sẽ tan mất đi và chúng ta sẽ mãi mãi sống trong bơ vơ tiếc xót.

Nỗi buồn giấu kín

Nhưng có lẽ đặc tính đáng nhớ nhất của cái đẹp trong văn Thạch Lam ấy là nó thường được miêu tả với một nỗi buồn sâu xa. Cảm giác chính còn lại trong người đọc sau khi đọc nhiều trang sách, từ Gió đầu mùa đến Sợi tóc, là một cuộc đời mờ mờ xám xám. Hãy nhớ lại Cô hàng xén, thiên truyện bao quát gần hết cuộc đời của một con người. Những phiên chợ quê nhiều màu sắc, thoáng qua rất nhanh, cùng với những năm tháng tuổi trẻ, ấp ủ nhiều hy vọng của người con gái chăm chỉ và giàu tình thương gia đình. Rồi cái khía cạnh người ta nhớ hơn cả khi nghĩ tới Tâm, ấy là con đường từ chợ về nhà vắng vẻ, cùng những lo âu đè nặng tâm hồn cô trong cuộc sống hàng ngày. Ngòi bút Thạch Lam thường tỏ ra có sự nhạy cảm lạ lùng với những gì đã an bài hoặc những nếp sống đã trở thành mòn mỏi. Một buổi tối phố huyện, nhà cửa như thiếp dần đi trong ánh sáng những ngọn đèn dầu leo lét. Những điệu hát xẩm vẳng lên trong một xóm nghèo. Mấy bức tranh dân gian màu sắc đạm bạc. Cảnh tết sơ sài ở một xóm nhỏ ngoại thành… Thạch Lam bằng lòng chấp nhận cuộc sống như nó đang có, nhưng vẫn không thôi tự nhủ lẽ ra nó phải khác kia, làm sao nó lại chỉ như chúng ta đang thấy! Một cảm giác bao trùm còn lại: Đời đẹp và buồn. Và nhờ gắn với cái buồn, cái thực, mà vẻ đẹp trong văn Thạch Lam lại có được sự sống riêng. Nó trở nên bền chắc. Nó không lẫn đi giữa những vẻ đẹp nhạt nhèo mà những cây bút tầm thường mang ra để an ủi bạn đọc. Cái thủa thanh bình xa vắng tác giả Gió đầu mùa hay nói tới giờ đã qua đi từ lâu, song sống trong tấp nập ồn ào, các thế hệ đến sau vẫn có thể tìm thấy ở cái vẻ đẹp cổ điển mà Thạch Lam hay nói tới một sự đồng cảm. Cổ điển ở đây đồng nghĩa với sống mãi.

 

 

46. Hai cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bính

 

Nhiều nhà thơ nổi tiếng thời tiền chiến thường đồng thời có viết văn xuôi. Thâm Tâm đã viết Thuốc mê; Trần Huyền Trân đứng tên sau các tiểu thuyết Sau ánh sáng, Bóng người trên gác kinh; Anh Thơ có Răng đen. Về phần mình, Nguyễn Bính từng cho in nhiều kỳ trên báo rồi in thành sách hai tác phẩm tương đối dài hơi là Ngậm miệngHai người điên giữa kinh thành.

Ngậm miệng (tròn 100 trang) là một thứ tiểu thuyết độc thoại. Nhân vật xưng tôi trong truyện tự kể lại mối tình của mình với một cô gái tên là Oanh. Nhưng đó là tình yêu một phía, tình không được đáp lại. Thậm chí người con trai cũng chưa một lần dàn mặt trò chuyện với người mình yêu. Hết đứng đón để được thấy bóng dáng của nàng, chàng lại qua nhà đêm tối, trời mưa cũng đứng gần nhà nàng, chờ trong nhà… tắt đèn. Giận dỗi vì bất lực, hai lần chàng bỏ đi. Lần lên Thái Nguyên rồi ốm tương tư đã gần chết. Lần vào tận đồng đất Nam bộ xa xôi. Nhưng đi xa ít lâu chàng lại về trong tuyệt vọng. Vì Oanh vẫn không hề đoái hoài. Đúng ra, Oanh không thể gọi là một nhân vật trong Ngậm miệng đơn giản là vì Oanh không tự thân xuất hiện. Phần đầu tác phẩm, có đoạn tả Oanh đi lấy chồng, khiến tôi đứng nhìn mà xiết bao đau đớn. Nhưng đó không phải cảnh thật mà chỉ do chàng yêu quá, ngồi tưởng tượng ra. Gần cuối truyện có chương Động phòng hoa chúc dạ, tả ngày cưới của hai người nhưng chẳng qua cũng là câu chuyện ở trong giấc mơ, khi một mình chàng thi sĩ đang lăn lóc ở nơi phương trời xa lạ nằm mơ rồi vẽ ra trong đầu. Cuối truyện, tôi giận dữ nói với một người bạn: “Nếu bây giờ tôi gặp Oanh, câu đầu tiên của tôi là bảo với nàng rằng: “Oanh ơi! Oanh có biết không? Quả thật tôi không yêu Oanh một tí nào cả”.

Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội dài hơn (139 trang) và có vẻ nhiều chất tiểu thuyết hơn. Hai nhân vật chính trong truyện là Tuấn và Điệp. Cả hai là những thi sĩ trẻ, nhưng đã trải qua nhiều đau đớn trên đường tình ái, nên rất bi quan mỗi khi bàn về phụ nữ. Theo Điệp và Tuấn “linh hồn họ đục như bùn và lòng họ đen như than” (họ đây là phụ nữ nói chung!) Một lần, chán quá,  hai người nghĩ ra trò chơi kỳ cục: mua hoa xuống nghĩa trang thành phố – bấy giờ là nghĩa trang P.T ở gần Bạch Mai để xem có cô gái trẻ nào mới chết thì… đặt hoa lên mộ. Từ đó, cả Tuấn và Điệp đều hết lòng yêu Hoàng Lan, cô gái mà họ không hề biết mặt và đã chết từ mấy tháng trước. Điều này khiến bạn bè của họ như thi sĩ Trần, Quang… đều bảo họ điên. Tình cờ, một lần xuống mộ, hai chàng gặp mẹ và em gái Hoàng Lan. Họ mời Tuấn cùng Điệp đến chơi, rồi về gia đình trọ luôn thể. Nhưng đang sống trong mộng, bỗng nhiên một lần Điệp bắt gặp trong tấm gối cũ của Hoàng Lan – mà chàng thường gối – một xấp thư và ảnh. Hoá ra, trước khi chết, Hoàng Lan đâu phải trong trắng như Điệp đã tưởng. Báo tin cho Tuấn biết chuyện này mà lòng Điệp đau như dao cắt.

Đương thời, mối tình si của Nguyễn Bính với một cô gái tên là Oanh ở Hà Đông đã được nhiều người chứng kiến. Trong hồi ký Những gương mặt, ở bài viết về Trúc Đường, Tô Hoài kể: “Một hôm, vào lúc chập tối, đương đi ở phố Hàng Bông, Nguyễn Bính bấm tôi: Oanh đấy! Oanh đấy! Tôi nhìn sang bên kia hè. Trời ơi! Oanh! (…) Một cô gái mặt tròn như chiếc bánh đúc chít khăn sa tanh đen kiểu các cô bán cau khô, hàng xén chợ tỉnh. Mà cái chàng “khách thơ” Nguyễn Bính đâu có quen biết gì người ta cho cam! Hình như chỉ biết là con một ông ách ông quản gì đó ở Hà Đông. Thế mà cứ rối cả lên”. Nhưng ở đây, chúng ta không bàn đến chuyện Oanh xấu hay đẹp, Oanh có yêu Nguyễn Bính hay không. Điều quan trọng hơn đối với người nghiên cứu lịch sử văn học: con người Nguyễn Bính bộc lộ qua mối tình này ra sao.

Nếu sự vắng bóng của Oanh trong Ngậm miệng có vẻ làm hại tới tác phẩm về mặt tiểu thuyết, thì để bù lại, nó tạo ra một khoảng trống để buộc Nguyễn Bính khai thác bản thân tỉ mỉ hơn. Qua thiên truyện này, ta được đọc những trang ông tự kể về quê quán ông (làng Thiện Vinh, có “thổ sản” rau cần và chuyên nghề làm bún), gia cảnh ông (mẹ mất sớm, thiếu người chăm sóc, lúc nào cũng cảm thấy “bị chôn sống giữa một gia đình hiu quạnh như bãi tha ma”).  Lá thư nhân vật xưng tôi gửi cho ông  anh Hữu Cương – có thể hiểu là thư Nguyễn Bính gửi cho nhà viết kịch Trúc Đường – là một đoạn tự bạch thành thực và cảm động. Trong khoảng 8 trang sách, Nguyễn Bính đã nói gần như đầy đủ về mình và gia đình mình. Ngoài ra, trong nhiều trang sách, người ta bắt gặp những ý tứ mà sau này Nguyễn Bính sẽ đưa vào thơ. Chẳng hạn ở trang 22 tiểu thuyết Ngậm miệng Nguyễn Bính viết: “Tôi phụng thờ nàng hơn các vị tăng ni phụng thờ đức Phật, tôi tôn sùng nàng gấp mấy người ta tôn sùng một tôn giáo. Tôi luôn luôn tụng kinh vì nàng, nhưng là tụng kinh ân ái”. Đọc đoạn này, người ta không khỏi nhớ tới mấy câu kết bài Lời yêu đương.

Ai yêu như tôi yêu nàng

Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh

Chung nhau dựng một trường đình

Thờ riêng một vị thần linh là nàng.

Điều này, người ta cũng thấy rõ trong tiểu thuyết Hai người điên giữa kinh thành.

Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh ở HNĐGKTH là ở chỗ khác.

Theo nhà thơ Hoàng Tấn cho biết, Nguyễn Bính thường tự nhận tiền thân của mình là bướm, và từng lấy bút hiệu là Điệp Lang. Trong thơ ông, mô típ con bướm nhởn nhơ phong tình thường trở đi trở lại. Nhân vật Điệp trong Hai người điên giữa kinh thành có nhiều nét nhang nhác con người Nguyễn Bính hàng ngày: cũng lối dễ xúc động “trông người con gái nào cũng thấy đẹp”, “gặp người con gái nào cũng nói ầm cả lên là yêu tha thiết yêu mặn mà”; cũng những cảm giác sâu nặng về truyền thống, vừa nhìn rặng hoa hoè điểm chấm vàng đã nhớ ngay chuyện ngày xưa sĩ tử đi thi.

Vậy đã rõ Điệp chính là Nguyễn Bính. Thế còn Tuấn, và Trần, Quang, hai người bạn làm thơ khác?

Theo chúng tôi tìm hiểu, Tuấn ở đây chắc chắn là hình ảnh của Thâm Tâm. Tên thật của Thâm Tâm là Nguyễn Tuấn Trình, thì chữ Tuấn chắc rút ở đấy ra, đấy là một lẽ. Lẽ thứ hai quan trọng hơn:

Tuấn ở đây, cũng như Thâm Tâm ở ngoài đời, đều là loại người khắc khổ, nhìn đời một cách bi quan. Đặc biệt, Tuấn cũng từng yêu một cô gái trẻ, tên là Khánh, trong tình yêu cũng xen vào hình ảnh những bông hoa ti-gôn “dáng như tim vỡ”, rồi cô gái cũng bỏ đi lấy chồng, khiến Tuấn đời đời ôm hận. Tóm lại, toàn là chi tiết mượn từ đời riêng Thâm Tâm, trong đó có mối tình Thâm Tâm với T.T.Kh. Còn Trần thì không ai khác, là Trần Huyền Trân. Bộ ba Nguyễn Bính- Thâm Tâm- Trần Huyền Trân gắn bó với nhau từ hồi viết Tiểu thuyết thứ năm và báo Bắc Hà, một mối gắn bó mà Nguyễn Bính từng mô tả “không đào viên kết nghĩa nhưng cũng thành tam anh”. Vả chăng, thời tiền chiến nếu có một thi sĩ nào mà thơ “điêu luyện, cổ kính, đẹp như một bức tranh Tàu”, như Nguyễn Bính tả trong Hai người điên giữa kinh thành, thì người đó phải là Trần Huyền Trân. Sau hết, còn ai là Quang, một người bạn nữa của Tuấn và Điệp, chỉ hiện ra với mấy nét thoáng qua trong tác phẩm? Tác giả cho biết “Quang có gia đình êm ấm ở Hà Nội, nhưng lại thích đi giang hồ. Giang hồ đây chỉ có nghĩa là đi liêu biêu, nay đây mai đó để được làm thơ nhớ quê hương, nhớ mẹ, nhớ chị, nhớ tình nhân và nhớ hết mọi người.” Đây nữa, là chi tiết “thân hình anh to nhớn như voi, nhưng tính khí lại như đàn bà, rất hay khóc”. Nhà văn Tô Hoài nói với tôi: Quang đây là Phạm Quang Hoà một cây bút của nhóm Bắc Hà.

Ngoài tiểu thuyết, Nguyễn Bính còn viết truyện ngắn. Một nhà nghiên cứu cho biết năm 1944, trong thời gian ở Sài Gòn, Nguyễn Bính có truyện ngắn Không đất cắm dùi in ở tờ báo Thanh niên Đông Pháp, được báo này tặng giải nhất trong một cuộc thi. Trước đó, hồi nhà thơ đang ở Hà Nội, tác phẩm văn xuôi ký tên Nguyễn Bính in rải rác trên các báo cũng có khá nhiều. Bản thân chúng tôi mới sưu tầm được một truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Bính mang tên Nước hồ sen. Tác giả đề rõ mình viết truyện này ở đền Yên Phú, Hà Đông và cho in năm 1940.

Nhưng hãy trở lại với Ngậm miệng Hai người điên giữa kinh thành, ngoài giá trị tự thân, cả hai cuốn tiểu thuyết này là những tài liệu quý, giúp ta hiểu thêm Nguyễn Bính và bạn bè cùng làm văn nghệ đương thời. Chúng xứng đáng có mặt trong một Toàn tập Nguyễn Bính nghe nói đang được chuẩn bị.

 

 

47. Từ người chị lỡ bước sang ngang tới cô lái đò

 

Nếu nghĩ đến nước Anh, người ta nhớ tới Hamlet, để hình dung ra Tây Ban Nha, người ta liên tưởng ngay đến chàng hiệp sĩ mặt buồn Don Quichotte, thì nghĩ đến xã hội Việt Nam, nhiều người nghĩ ngay đến nàng Kiều, đến Xuý Vân… Những người phụ nữ ấy “rằng tài nên trọng mà tình nên thương”, thông minh nhạy cảm tuyệt vời là thế, nhưng số phận đâu có nuông chiều họ. Suốt đời đeo đẳng họ như cái bóng là những  nỗi “đoạn trường” họ phải gánh chịu.

Với một nền văn hoá giàu nữ tính – nghĩa là thiên về tình cảm và xúc động – như văn hoá Việt Nam thì một lẽ đương nhiên là trong các sáng tác nghệ thuật, người phụ nữ thường đóng vai trò nổi bật.

Điều đó chẳng những đúng với văn học cổ điển và văn học dân gian mà còn đúng với văn học hiện đại, trong đó có những bài thơ của Nguyễn Bính, người mà cái chết bất hạnh đã cướp đi vào một ngày tất niên của năm ất Tỵ, song cái phần tinh anh, tức là thơ của ông lại vẫn đang hiện diện thường trực trong tâm trí hàng triệu bạn đọc.

Trung hậu, đảm đang…

Em ơi em ở lại nhà

Vườn dâu em đốn mẹ già em thương

Mẹ già một nắng hai sương

Chị đi một bước trăm đường xót xa.

Đặt trên cái nền của một xu thế Âu hoá bao trùm văn học tiền chiến thì những bài thơ của Nguyễn Bính trong Lỡ bước sang ngang, trong Mây Tần v.v… nổi bật lên ở những hoài niệm dai dẳng về nông thôn, những hoài niệm tưởng là âm thầm song lại vô cùng mãnh liệt. Trong cái đời sống nông thôn được lãng mạn hoá và phần nào lý tưởng hoá ấy, người phụ nữ ở vào vị trí trung tâm. Bóng dáng họ gắn liền cây đa, bến nước, những đêm hội. Bao nhiêu vất vả hàng ngày, từ tầm tang canh cửi cho đến vá may cơm nước, đều dồn cả lên vai họ. Năng động và kiên nhẫn, họ tự tin mà làm việc. Sự đảm đang quán xuyến, đức tần tảo siêng năng là những phẩm chất nẩy nở trong họ một cách tự nhiên, không cần một chút cố gắng. Trong những gia đình nửa nông tang, nửa chăm lo đèn sách – một kiểu gia đình khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ trước đây – thường  khi họ là những trụ cột, cả về vật chất lẫn tinh thần. Qua cái hình ảnh người vợ vừa quay tơ dệt vải, vừa thúc giục chồng học hành để chờ ngày thi cử:

Một quan là sáu trăm đồng

Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.

Người ta nhận ra cái tầm nhìn không hề hạn hẹp của người phụ nữ nông thôn xưa. Hoá ra chẳng những chỉ biết duy trì đời sống trước mắt, mà họ còn âm thầm làm việc cho tương lai. Họ rất hiểu công việc đèn sách của cha anh, chồng con, và làm gì để giúp cho những người đàn ông ấy thành đạt, không bao giờ họ tiếc. Trên nhiều phương diện, hình ảnh những người phụ nữ được miêu tả trong những tập thơ đầu  của Nguyễn Bính là nối tiếp của những người phụ nữ vốn đã quen thuộc với chúng ta qua ca dao, dân ca, những làn điệu chèo. Nên nhớ là vào khoảng mấy năm 1936-1939, khi Nguyễn Bính cho in mấy tập thơ đầu, thì cũng là lúc trên văn đàn xuất hiện nhiều cuốn tiểu thuyết viết về nông thôn, trong đó hình ảnh người phụ nữ được khắc hoạ với nhiều nét vẽ đa dạng, sơ lược giản đơn cũng có (một số nhân vật phụ nữ nông thôn của nhóm Tự Lực Văn đoàn), mà lố lăng thô kệch cũng có (Thị Mịch của Vũ Trọng Phụng). Chỉ riêng có người phụ nữ của Ngô Tất Tố là có được một vẻ đẹp riêng. Đảm đang lo liệu việc nhà, thương chồng thương con, quả quyết trong những hy sinh cần thiết, chị Dậu trong Tắt Đèn, như cách nói  của một nhà văn, có thể coi như một thứ đài kỷ niệm về người phụ nữ Việt Nam trong đêm trường thực dân phong kiến. Thế còn ở Nguyễn Bính? Trong chừng mực nào đó, người phụ nữ nông thôn hiện lên trong Lỡ bước sang ngang, trong Mây Tần, trong Tâm hồn tôi…. có nhiều nét gần với chị Dậu của Ngô Tất Tố. Họ tượng trưng cho một đời sống văn hoá đã trở thành nền nếp của một thời và mãi mãi là biểu hiện sinh động cho những đức tính đã đi vào truyền thống của dân tộc.

Những bất hạnh thường trực và niềm thương cảm của tác giả

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn

Hai ngươi sống giữa cô dơn

Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.

Ngoài con người chân quê, người phụ nữ trong thơ Nguyễn Bính còn là hình ảnh của tình yêu muôn màu muôn vẻ. Trong Mưa xuân, người ta bắt gặp những khao khát âm thầm trong lòng một cô gái quê trong trắng. Đến Nhớ, Chờ nhau, cô gái ấy lại hiện ra với những thú nhận chân thành về nỗi xao động trong lòng mình. Rồi đến áo anh, rồi Làm dâu từ nhiều bài thơ khác nhau, thấy ẩn hiện hình ảnh con người một mặt vẫn thiết tha với niềm hạnh phúc riêng tư, mặt khác, bao giờ cũng giữ được những nét ý nhị từ tốn, chúng vốn được coi như những đức tính cố hữu của người con gái, theo quan niệm của văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, cũng ngay ở Mưa xuân, người ta nhận ra rằng trước cái đa đoan của cuộc đời, người con gái trong Nguyễn Bính không phải bao giờ cũng suôn sẻ trên đường đi tới hạnh phúc. Thường khi, họ gặp phải những tình tự khá rắc rối. Không ít trường hợp, họ trở nên tượng trưng cho một vẻ đẹp mong manh, rực rỡ đấy mà cũng tàn lụi ngay đấy (Người hàng xóm: Hỡi ôi, bướm trắng tơ vàng Mau về mà chịu tang nàng đi thôi). Hoặc nếu không chết yểu thì họ cũng bị giông bão cuộc đời cuốn đi, khiến cho hạnh phúc tiêu tan, mọi hy vọng trở nên hão huyền, và sự tồn tại trong đời trở thành đồng nghĩa với trớ trêu, đau đớn. Không kể Nhớ, Hoa với rượu, Viếng hồn trinh nữ, mấy bài thơ liên quan đến chị Trúc, như Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương, Khăn hồng, Xây lại cuộc đời.. và cả Lỡ bước sang ngang nữa, nối tiếp nhau tô đậm cái ý: hình như càng tài hoa, tế nhị, càng sâu sắc trong tình cảm, thì người phụ nữ càng dễ bị tai hoạ, và nỗi thất vọng sớm muộn rồi sẽ biến thành tuyệt vọng. Một tương lai như thế nào chờ đợi họ?

Cha mẹ đã không nuôi dạy được

Con là phận gái hạt mưa sa

Chân bùn tay lấm hay hài hán

Hay lại bình khang lại nguyệt hoa?

Cành đưa lá đón theo lời mẹ

Phách ngọt đàn hay tục xướng ca.

ở bài Oan  nghiệt này, ta thấy người đàn bà trong Nguyễn Bính đã phải chịu những đau đớn ghê gớm bậc nhất, đó là rơi vào cảnh lầu xanh, và do sự run rủi của số phận, trở thành vật mua bán trao tay ngay giữa người thân của mình.

Có thể không hẳn bao giờ nhà thơ cũng có ý thức về ý nghĩa xã hội toát lên qua các bài thơ đã viết, song sự thực là, trong khi nói về những người mẹ, người chị, những cô gái mà bản thân yêu quý, Nguyễn Bính nhiều lúc đã gợi ý cho người đọc suy nghĩ về những điều có ý nghĩa khái quát. Chưa bao giờ ông kêu lên được như Nguyễn Du Đau đớn thay phận đàn bà, song hình như đấy cũng là điều toát lên từ một số bài thơ và đằng sau vẻ thơ mộng, tinh tế  vẫn có thể bảo là thơ Nguyễn Bính có một nội dung hiện thực chắc thiệt, cụ thể.

Có lẽ cũng vì có lòng thương mến rộng rãi, nên có lúc Nguyễn Bính còn đi tới một sự bao dung rất lạ. Hãy đọc lại bài Cô lái đò, ông viết từ khi còn rất trẻ (1940 về trước tức khi ông mới 21, 22). Xét theo quan niệm cổ truyền thì cô gái ở đây là một người không chung thuỷ. Đã một lần nặng thề cùng ai, song do chờ đợi quá lâu, không chịu đựng nổi, cô đành lỗi ước với tình quân. ấy thế nhưng đọc đi đọc lại bài thơ, người ta vẫn không nhận ra một thoáng chê bai oán trách, mà trước sau chỉ một thái độ thông cảm.

Dường như tác giả muốn nói : trên cái nền rộng lớn và buồn đau của cuộc đời, người phụ nữ dù như thế nào đi nữa, cũng không có lỗi. Ngược lại, chỉ sự có mặt của họ đã là niềm an ủi, là chút ấm lòng cho đám khách qua sông đông đảo là cánh đàn ông chúng ta! Có thể cảm thấy điều đó khi lắng nghe lại cái âm hưởng riêng biệt toát ra từ những bài thơ Nguyễn Bính viết về phụ nữ:

Xuân đã đem mong nhớ trở về

Lòng cô gái ở bến sông kia

Cô hồi tưởng lại ba xuân trước

Trên bến cùng ai đã nặng thề

Nhưng rồi người khách tình xuân ấy

Đi biệt không về với bến sông

Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi

Mấy lần cô gái mỏi mòn trông

Xuân này đến nữa đã ba xuân

Đốm lửâ tình duyên tắt nguội dần

Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi

Cô đành lỗi ước với tình quân

Bỏ thuyền bỏ bến bỏ dòng trong

Cô lái đò kia đi lấy chồng

Vắng cô em từ độ ấy

Để buồn cho những khách sang sông.

 

 

 

48. Tình yêu một thuở

tình yêu vĩnh viễn

 

 

Giả sử vào những ngày này nghe đồn là có một người con trai nào đó yêu một người con gái nào đó, song lại cứ nằng nặc đòi cô kia phải đan cho mình một chiếc áo len, như một thứ của làm tin, xem áo như dấu hiệu của một tình yêu, của sự chung thuỷ – hẳn nhiên nhiều bạn trẻ sẽ … chết sặc vì cười. Sang thời buổi của xe Dream, của các quán Karaoke, cách tỏ tình của thanh niên hiện nay hiện đại hơn, do đó chắc chắn giản tiện hơn, khong rườm rà thủ tục như ngày nào. Nhưng có điều là dù thay đổi đến mấy thì bây giờ người ta vẫn phải yêu và có lúc không cách nào khác, vẫn mượn những trang thơ để bày tỏ nỗi lòng. Bởi  vậy mới có hiện tượng cùng với thơ tình Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, những bài thơ của Nguyễn Bính viết từ nửa thế kỷ trước – trong đó, ở nhiều bài thấy lặp đi lặp lại lời than thở rằng người yêu bỏ mình rồi, mùa rét tới không ai đan cho mình một chiếc áo len nữa, vẫn đang được ưa chuộng trên thị trường sách báo và các độc giả trẻ tuổi rất thông minh hiện thời vẫn biết đọc qua những vần thơ đó cái phần con người ngày nay mới có.

Đọc tiểu sử Nguyễn Bính, người ta vẫn biết rằng trước khi lên thành phố vương vấn với các “cô gái ở lầu hoa” ở những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ này, thì ông đã sống những năm đẹp nhất của tuổi trẻ ở một làng quê Nam Định. Bởi vậy, trước khi nói chuyện “đan áo len” thơ ông còn hay nhắc tới chuyện các cô gái trồng dâu, dệt lụa, may áo tặng các chàng, và một vẻ quê quê thường xuyên hiện lên như một sắc thái riêng, làm nên cái duyên dáng riêng của thơ tình Nguyễn Bính. Hãy thử nhớ lại xem khi nào thì con người ở đây yêu nhau: cùng học ở một trường huyện, hoặc sống ở hai thôn nhưng thực ra là một làng; có khi gần hơn, hai nhà chỉ cách nhau một giậu mùng tơi nho nhỏ, và thuở bé hai trẻ vẫn đùa chơi với nhau. Thật là những nguyên cớ rất hồn hậu! Rồi cái đích mà tình yêu đi tới cũng hồn hậu không kém. Lặp đi lặp lại trong nhiều bài thơ là cái công thức về một gia đình lý tưởng: vợ chăn tằm dệt vải, chồng miệt mài đèn sách để chờ ngày thi cử. Về mặt này mà xét, thơ tình Nguyễn Bính ngoài công cuộc Âu hoá đương thời, và không cần so sánh với Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử mà ngay với Lưu Trọng Lư thì  những bài thơ in trong Lỡ bước sang ngang, Mây Tần, Mười hai bến nước… vẫn có gì đó dân dã hơn, nguyên chất nông thôn và xa lạ với văn minh thị thành hơn. Vả chăng, bấy nhiêu chuyện có lẻ vẫn chỉ là phong cách biểu hiện bên ngoài. Đằng sau cái vẻ vừa quê mùa, vừa cổ kính, thơ tình Nguyễn Bính nhiều khi đạt tới các mức gần như trùng khít với tâm tình con người đương đại. Ví dụ, dù là ở nông thôn hay thành thị, dù là người của các thế kỷ trước, hay của thời đại văn minh này, thì khi đã yêu, cũng không ai tỉnh như sáo mãi được. Ngược lại, luôn luôn trong con người ta có những phút vẩn vơ không đâu vào đâu. Những lúc ấy, tôi nghĩ, trong tâm trí người thanh niên hiện nay dễ dàng vang hưởng những câu thơ trong bài Tương Tư. Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Nắng mưa là bệnh của trời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng, hoặc bài Nhớ: Ví chăng, nhớ có như tơ nhỉ Em thử quay xem được mấy vòng Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ Em thử nào xem được mấy thưng. Lại ví như khi yêu bao giờ người ta cũng thiên vị tức cũng có xu hướng dành cho người yêu của mình những lời lẽ tốt đẹp nhất. Thành thử, những câu thơ sau đây, mà Nguyễn Bính dùng để tả người con gái, tưởng cũ bao nhiêu, mà vẫn cứ luôn luôn là mới:

Một đi làm nhớ hoa sen

Một cười làm rụng hàng nghìn hoa mai

Hương thơm như thể hoa nhài

Những môi tô đậm làm phai hoa đào

Nõn nà như thể hoa cau

Thân hình yểu điệu ra màu hoa lan.

Hoá ra, trong văn chương thơ phú, những chi tiết đã quan trọng, song  cái chính vẫn là hồn cốt của tình cảm con người; khi đã có sự thông cảm rồi, thì mọi xa cách không còn gì đáng quan ngại nữa.

Trên một số tạp chí Pháp, các nhà nghiên cứu vừa đưa ra một vài con số thống kê về tình yêu. Điều thú vị khi tìm hiểu những con số thống kê này, người ta nhận ra rằng ngay ở phương Tây hiện đại, tình yêu vẫn không mất đi hẳn những sắc thái cổ điển của nó. Vẫn còn ít ra là 1% không bao giờ biết đến tình yêu, và nếu chỉ giới hạn ở lứa tuổi 15-19 thôi thì vẫn còn 5% thú nhận rằng mình hoàn toàn trinh trắng (tài liệu của báo Phụ nữ TP. HCM).

Nhắc lại những chuyện này ở đây để thấy số phận kỳ lạ của tình yêu nói chung và thơ tình nói riêng. Để cho công bằng, phải nhận là tình yêu được miêu tả trong thơ Nguyễn Bính có chút gì đó hơi cổ. Nó thiêng liêng quá. Nó cao sang. Nó thuần hậu. Nó luôn luôn giả định một sự chân thành làm tiền đề; chẳng những thế, nó luôn luôn nhằm tới cái đích là sự chung sống trong một gia đình. So với thực tế tình yêu của con người ở những năm cuối của thế kỷ XX, rõ ràng có những khía cạnh nó đã bị vượt qua. Thế thì tại sao thứ thơ ấy vẫn được phổ biến rộng rãi, một sự phổ biến, theo chúng tôi quan sát là chỉ đứng sau Truyện Kiều và các truyện nôm như Nhị Độ Mai, Hoa Tiên ngày xưa? Tôi nghĩ rằng ở đây không gì khác, chỉ chứng tỏ loại đã có mặt. Luôn gắn bó với thời gian, nhưng tình yêu cũng là cái gì muôn đời muôn thuở vẫn vậy. Và nhiều khi càng từng trải, càng chai sạn, người ta càng muốn sống lại sự thành thực sự thiêng liêng hồi nào. Văn chương không phải chỉ có việc gợi lại những gì con người đang có, mà còn là viễn tưởng, là hình bóng của cái gì con người ước ao nhưng lại không có, hoặc từng có nhưng đã đánh mất.

 

 

9. Chị ơi! em cưới mùa xuân nhé

(Hay là : Xuân và Tết trong thơ Nguyễn Bính)

1. Số lượng và chất lượng

Thủa ghi lại tên một số bài thơ mà Nguyễn Bính đã viết, trong đó có nói đến xuân là tết.

Lỡ bước sang nang: Mưa xuân

Tâm hồn tôi: Xuân về

Một nghìn cửa số: Thơ xuân, Mùa xuân xanh

Mười hai bến nước: Xuân tha hương

Mây tần: Tết của mẹ tôi

Đây nữa, các bài thơ lẻ mới đăng báo mà chưa in vào tập nào: Vườn xuân, Xuân thương nhớ, Tết biên thuỳ.

Tiếp đó, nếu dừng lại kỹ hơn ở các bài thơ khác không thật trực tiếp song vẫn nói đến cùng một đề tài (như Cô lái đò, Quán trọ, Khăn hồng, Vài nét rừng) thì người ta phải công nhận với nhau rằng Nguyễn Bính, trong số các nhà thơ hiện đại, là một trong những người viết nhiều về xuân và tết hơn ai hết.

Nếu lại biết rằng Nguyễn Bính qua đời vào một ngày cuối tháng giêng 1966, tức cuối năm ất Tỵ, trước khi chuyển sang năm Bính Ngọ, thì người ta càng có quyền để cho sự liên tưởng được đẩy đi xa hơn nữa. Giai thoại Nguyễn Bính kể: một người bạn của Nguyễn Bính là Trần Lê Văn cho rằn tác giả Lỡ bước sang ngang đã tiên liệu trước cái chết của mình ngay từ thời viết mấy câu thơ trong bài Nhạc xuân:

Năm mới tháng giêng mùng một tết

Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.

Chúng ta có thể không hoàn toàn nghĩ như Trần Lê Văn song phải nhận là giữa Nguyễn Bính với cái thời khắc trời đất giao hoà này, đúng là có mối duyên nợ thầm kín nào đó.

2. Mùa xuân và tết đã được Nguyễn Bính miêu tả như thế nào?

ở bài Xuân về, ta bắt gặp: gió, trời trong, nắng, lá non, hoa bưởi, hoa cam, cánh bướm.

ở vài Vườn xuân: gió, bướm, mưa bụi, búp non.

Khi tả tết (như ở các bài Tết của mẹ tôi, Tết biên thuỳ) Nguyễn Bính lại cũng nói đến pháo, hoa, rượu, những nét son trên môi thiếu nữ.

Đại khái, đó là những chi tiết thông thường mà mỗi chúng ta hình dung ra, khi nghe nói đến xuân và tết. Về mặt thi liệu mà xét, chúng không có cái lạ, cái choáng ngợp, của những gì thật mới, thật độc đáo. Chỉ có điều là những chi tiết đơn sơ ấy được Nguyễn Bính thổi vào một sức sống, khiến nó hiện lên thành những bức tranh tự nhiên, đồng thời gợi lên trong lòng người đọc những xúc động mà hầu như ai cũng có, nhưng lại không hay biết.

3. Thế còn ý nghĩa mà mùa xuân và tết để lại trong lòng người?

Bài Thơ xuân nhắc đến đủ loại người, và ở mỗi loại xuân lại có một ý nghĩa riêng.

Với các em nhỏ, xuân là đùa vui nhí nhảnh. Với các cô gái, xuân gợi chuyện ái ân. Với các chàng trai, ngày xuân cũng là những ngày bắt đầu của một mơ ước cao rộng: thi cử, đỗ đạt.

Ngược lại, với các cụ già, xuân là thời gian để chiêm nghiệm việc đời.

Có thể dự đoán một bài như bài thơ Thơ xuân được viết để “góp tên góp tuổi góp chất lượng” cho một số báo tết của một cố nhân nào đó trong làng báo, nên nặng tính cách giao đãi (tất nhiên, giao đãi của Nguyễn Bính, thì cũng đã rất tài). Còn như muốn tìm cái phần thật là chân chất của Nguyễn Bính, cái phần xuân và tết riêng của ông, thì không gì bằng đọc lại những bài như Mưa xuân. Mượn lời tâm sự của một cô gái đi xem chèo không gặp người yêu, bài thơ cô kết lại ở những cảm giác âm thầm và rạo rực mà mùa xuân mang lại trong lòng mỗi người. Đây là thời gian của gieo cấy ấp ủ của tin yêu và chờ đợi. Sau cái mưa bụi kia, trong không khí lành lạnh của những thoáng mùa đông đang còn sót lại, thực ra là bao hy vọng mơ hồ được đánh thức, nó làm cho mỗi con người, nhất là những người tuổi trẻ “ngồi không yên ổn, đứng không vững vàng”, và mặc dù đôi khi dó chỉ là những hy vọng hão, những ước mong không được đáp ứng, song nó vẫn bền chặt trong lòng người, cả đến khi đau đớn, con người  ở đây vẫn không nản lòng, vẫn gắng công chờ đợi, vì ngày xuân còn dài, và theo nhịp tháng năm, sau xuân này còn có những xuân khác.

4. Xuân tha hương

Trở lên là những bài thơ xuân Nguyễn Bính đã viết khi mới từ nông thôn lên thành thị, mới bắt đầu cuộc đời của một thi sĩ với bao náo nức.

Chỉ vài năm sau thôi, khi gió bụi kinh thành mang lại cho Nguyễn Bính nhiều chua xót, và những ngày giang hồ đôi khi đồng nghĩa với cuộc lưu đày bất dắc dĩ, thì một mô típ khác bắt đầu xuất hiện: xuân và tết gắn liền nỗi nhớ quên, nhớ những kỷ niệm êm đẹp ngày trước. Giờ đây, nhìn ngày vui của mọi người, chàng thi sĩ chợt nhận ra mình quá đơn độc. Sống giữa cái tết của người ta, chàng mong những cái tết của mình. Và trước khi làm thơ xuân cho người, chàng làm cho mình những vần thơ xuân thật đau đớn, thật tê tái. Đấy là âm hưởng toát ra qua những bài thơ như Xuân tha hương, Quán trọ, Bài hành phương Nam viết sau 1940.

Nếu trước đây, thơ xuân Nguyễn Bính thường nói đến những buổi sáng, thì nay trong thơ xuân của con người ấy có những buổi chiều, những đêm tối.

– Thơ suông rượu nhạt, quán cơm nghèo

Xuân xế mùa xuân, chiều xế chiều

– Đây lời tâm sự cùng ai tỏ

Một lạnh đêm xuân chiếu lạnh giường.

Theo hướng phát triển này, giọng thơ Nguyễn Bính có dịp tự đổi khác khá bất ngờ. Trước đấy, thơ như một thứ quà tặng mà thiên nhiên ban phát cho người nghệ sĩ tài ba, và chàng chỉ việc giơ tay ra là hái ngay được để trao tặng cho đời. Nay ta bắt gặp một sự dụng công hơn và những gì tâm huyết hơn – thơ là sản phẩm của chính con người Nguyễn Bính, kết quả của sự từng trải riêng Nguyễn Bính mới có, thơ như những giọt nước mắt đã cố kìm giữ mà cứ trào ra trên gương mặt phong trần của chàng thi sĩ. Có thể nói, những vần thơ đanh quánh rắn rỏi có hơi hướng thơ biên tái (một dòng trong thơ Đường) này như là trình ra một Nguyễn Bính mới, và cái điều mà Nguyễn Bính vẫn tự hào, là được theo đòi bút nghiên, học chữ Hán từ lúc nhỏ, điều đó đã được chứng thực một cách thuyết phục.

Nhưng có lẽ những bài thơ xuân tha hương buồn bã chỉ có tiếng vang trong lòng một lớp công chúng chật hẹp.

Với đa số bạn đọc, Nguyễn Bính vẫn là tác giả của những câu thơ đắm say tha thiết với mưa xuân, những câu thơ chúng chiều chuộng người ta mơn trớn người ta, và phải nói là khá phù hợp với những ảo tưởng tốt đẹp mà mùa xuân thường gợi ra trong lòng bất cứ ai, kiểu như:

Mùa xuân là cả một mùa xanh

Trời ở trên cao lá ở cành

Lúa ở đồng tôi và lúa ở

Đồng nàng và lúa ở đồng anh.

Hoặc:

Đã thấy xuân về với gió đông

Với trên màu má gái chưa chồng

Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm

Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.

Người ta biết rằng Nguyễn Bính, con người rất nhạy cảm với phụ nữ, dễ yêu và cũng rất dễ là khổ phụ nữ này, trong đời riêng, khá bất hạnh. Cái hạnh phúc thông thường – một tình yêu trung hậu, kết thúc bằng một cuộc hôn nhân bền chặt – nhiều người bình thường có thể có, song chính Nguyễn Bính lại không có. Có lẽ vì thế người thi sĩ của chúng ta không khỏi có lúc muốn tìm tới trong thơ cái điều không đạt tới trong cuộc đời: trong cơn say sưa đã mấy lần ông gọi mùa xuân là một người con gái, và sẵn sàng đi đến cùng, trong mối quan hệ với người con gái ấy. Nhân trò chuyện với người chị ở xa là chị Trúc, ông cả quyết:

Chị ơi em cưới mùa xuân nhé!

Để rồi một dịp khác ông sẽ diễn tả những luống cuống trong tình yêu và niềm khao khát tận hưởng tình yêu với người con gái – mùa xuân trong những câu thơ thuộc loại hay nhất của mình.

Xuân đến tình tôi náo nức quá

Như người giai tế tối tân hôn

Vì say sưa quá, cho nên đã

Đành đổ trời xuân xuống suối hồn.

50. Những dòng nước ngược

Chuyện buồn giữa đêm vui là tên một thiên truyện của Nam Cao trong đó có nhân vật chính sau khi mời họ hàng đến ăn bữa cơm cuối, kể lại cho vợ nghe về một người cô hôm ấy không có mặt.

Để nội dung cụ thể sang một bên, hãy nới tới cái ý nghĩa khái quát nằm sau đầu đề thiên truyện: cuộc đời chung quanh chúng ta chẳng bao giờ trọn vẹn. Bởi vậy, hình như trong những ngày vui, những người không quá vô tâm, những người có lương tri thường không khỏi nhớ tới những gì chưa được hoàn thiện, những bất công khổ sở còn đầy rẫy quanh mình. Cái buồn ở đây không phải bi quan, càng không phải để làm dáng. Ngược lại, nó là tình cảm tự nhiên ở những con người lành mạnh, có yêu cầu cao về đời sống, và nhạy cảm với những gì đang diễn ra chung quanh.

Nếu không phải tất cả, thì một số nhà văn Việt Nam, nhất là nhưng cây bút hàng đầu của nền văn học dân tộc trong thế kỷ này – Nguyễn Công Hoan và Khái Hưng, Thạch Lam và Nguyễn Tuân, Tô Hoài và Thanh Tịnh… đã nghĩ như vậy. Khá nhiều thiên truyện mà họ đã viết nhân những ngày tết và nội dung có liên quan đến tết, lại là những truyện gợi cảm giác buồn bã.

Người ngựa và ngựa người của Nguyễn Công Hoan có hai nhân vật chính thì một là anh  phu xe đói khách, hai là cô gái làng chơi ế hàng, không có tiền cũng cứ gọi xe để dử mồi. Cuối cùng cả hai đều thất vọng. Cô ả trốn biệt. Anh phu xe bị quỵt tiền. Giữa lúc ấy “tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch”.

Tối ba mươi của Thạch Lam được xây dựng từ một cảm hứng hoàn toàn khác, song cũng buồn không kém. Cả hai nhân vật chính “sống đời truỵ lạc” (chữ của tác giả) song thực ra họ đều là người tử tế, do sa cơ nhỡ bước mà rơi vào vũng bùn. Đêm tất niên, không có khách lai vãng, hai người càng cảm thấy lạnh lẽo. Họ mua các thứ về thắp hương, cúng tổ tiên, cha mẹ và tủi về thân phận của mình, ôm nhau khóc.

Ngày tết là ngày của hy vọng. Các nhân vật chính trong thiên truyện mang tên Đón khách của Nam Cao cũng không nghĩ khác. Ông bà đồ Cảnh ở đây chỉ mong kiếm cho đứa con gái của mình một tấm chồng sáng giá. Họ nhịn nhục đi vay tiền làm bữa cỗ thật to chờ anh chàng rể tương lai. Nhưng chính lúc đó, họ nhận ra sự thật: anh chàng Sinh, mà họ định bẫy, chỉ buồn tình đùa bỡn gia đình họ cho vui. Anh đã có đám khác. Điều oái oăm là ở chỗ tin thất thiệt đổ ụp xuống gia đình ông đồ Cảnh giữa ngày mồng hai tết.

Có thể kể thêm ra đây nhiều thiên truyện tương tự ở đó, cái nền xảy ra câu chuyện là những ngày xuân chỉ khiến cho những nỗi đau khổ của các nhân vật thêm nổi bật. Thanh Tịnh từng miêu tả cái vui gượng gạo trong đêm giao thừa của những hành khách trên một chuyến xe lửa cuối năm. Khái Hưng trong một thiên truyện pha hồi ký, kể lại cảnh mình bị khám nhà giữa đêm ba mươi tết (ấy là hồi ông còn làm đại lý xăng dầu ở Ninh Giang). Trong Quê người của Tô Hoài, có một nhân vật tên là Thoại. Do quá nghèo túng, giữa đêm tất niên, Thoại xoay ra đi lùng chó, những con chó sợ pháo chạy lung tung giữa đồng. Nhưng cái mưu đồ ấy cũng không thành. Thoại bị một trận đòn nhừ tủ, đến nỗi xấu hổ quá, dắt vợ con bỏ làng ra đi. Tóm lại, “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết – Giàu có đến ba mươi tết mới hay” – hình như trong những ngày tết, ai đã vui lại vui hơn, ai đã buồn lại càng buồn hơn. Ngày xuân ngày tết chỉ làm rõ hơn cái tình thế mà mỗi người sẵn có. Và chỉ cần để ý kỹ chung quanh một chút thôi, người ta sẽ nhận ra ngày những cái tết eo hẹp, đạm bạc của những nguời quanh mình để không bao giờ đẩy sự vui vẻ tới mức quá trớn – hình như các nhà văn muốn nói thêm với bạn đọc điều ấy.

Thế cái quy luật này có tồn tại trong thơ, như đã tồn tại trong văn xuôi tiền chiến? Câu trả lời: cũng gần như thế! Cố nhiên, thơ vui ngày tết thì nhiều rồi, nhưng thơ buồn cũng không phải không có. Lấy một ví dụ: Có lần, các nhà sưu tầm thơ Nguyễn Bính đã chọn những bài thơ ông viết về mùa xuân và cảnh tha hương làm thành một tập riêng gọi là Xuân tha hương, trong đó, riêng những bài đầu đề có chữ tết, chữ xuân đã đến hơn chục bài: Xuân về, Vườn xuân, Thơ xuân, Xuân thương nhớ, Hội xuân, Mùa xuân, Rượu xuân, Nhạc xuân, Tết của mẹ tôi, Tết biên thuỳ… Những người quen biết Nguyễn Bính trước 1945 thường kể ông là người duy nhất hồi ấy có thể sống được bằng nhuận bút thơ. Vậy nên có thể dự đoán khá nhiều bài thơ nói về xuân về tết này được làm theo com-măng của các báo. Song, mặc dù được làm theo đơn đặt hàng, đây vẫn là những bài thơ khá hay. Có điều, nếu thời gian mới làm nghề, thơ Nguyễn Bính về xuân và tết thường là những bài thơ vui, thơ về sau, âm hưởng chính lại là buồn bã.

– Em đi dệt mộng cùng người

Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh

– Dang dở một thân nơi đất khách

Tết này ta lại ngắm hoa suông

– Huyền Trân ơi!

Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi

Giờ đây chín vạn bông trời nở

Riêng có tình ta khép lại thôi.

Những câu thơ vui, nhí nhảnh của Nguyễn Bính viết về xuân kiểu như Mùa xuân là cả một mùa xanh Trời ở trên cao lá ở cành… được nhiều bạn đọc trẻ tuổi ghi nhớ. Nhưng cũng có phần chắc chắn không kém là những câu thơ xuân kể lại cảnh cô quạnh, đơn độc của tác giả cũng đã là bàu bạn của lớp người từng trải, hơn thế, là lời an ủi cho những người cùng cảnh ngộ.

Bài viết này mượn nhan đề một tập thơ của Tú Mỡ. Điều may mắn cho chúng tôi là đọc lại tập thơ trào phúng đó cũng có mấy bài viết về tết, mà cũng là dòng nước ngược, với nghĩa: tuy tác giả không tả những cảnh buồn đau thất vọng, song ông cũng không hùa theo đời, tô vẽ cảnh tết, mà lại nhìn thấy trong ngày vui này những cái nhố nhăng nhếch nhác. Đây là một ví dụ:

Ghét tết

(thơ yết hậu)

Thiên hạ sao ưa Tết?

Hẳn vì mặc áo đẹp

Tớ đây bảo Tết phiền

Ghét!

Tiêu pha thực tốn tiền

Chè chén cứ liên miên

Hết Tết đâm lo nợ

Điên!

Mồng một đi mừng tuổi

Chúc nhau nghe inh ỏi

Toàn câu sáo rác tai

Thối!

Mừng tuổi đèo phong bao

Năm xu lại một hào

Ai sinh cái lệ đó?

Hao!

Kiết xác như vờ rồi

Còn ngông đốt pháo mãi.

Pháo kêu: Tiền hỡi tiền

Dại!

Cố nhiên, nghĩ như Tú Mỡ cũng có phần cực đoan. Sau một năm lao động vất vả, chúng ta có quyền vui tết. Điều có thể chia sẻ với Tú Mỡ trong trường hợp này là: có được một cái Tết cho hợp lý, có ý nghĩa mà cũng là có văn hoá- cái đó không phải dễ.

 

51. Cái nạn mừng tuổi

(Hay là câu chuyện mồng một đi chúc tết nhau, dưới con mắt nhà văn Nguyễn Công Hoan)

Ngòi bút nhà văn Nguyễn Công Hoan vốn nhạy cảm với những gì là phi tự nhiên, éo le, kỳ cục. Trong những sáng tác viết về tết, thói quen ấy vẫn được ông khai thác triệt để. Sở dĩ một thiên truyện như Người ngựa và ngựa người để lại trong bạn đọc cái dư vị chua xót là do nó đã nêu lên một nghịch cảnh mà trong những khi bận rộn tết nhất, người ta ít để ý: ấy là giữa lúc thiên hạ náo nức vui tết với gia đình, có những kẻ vẫn phải lang thang kiếm sống. Và tình thế lại càng thê thảm hơn, khi xảy ra cảnh đò nát đụng nhau, tức là trong cơn tuyệt vọng, hai kẻ khốn khổ đó (ở đây là một phu xe ế hàng và một nhà thổ không bói ra khách) còn lừa lọc nhau, rút cục là người nọ làm khổ người kia, và đứng ngoài nhìn, chúng ta chỉ có cách cười ra nước mắt.

Trong một truyện ngắn mang tên Năm mới tôi mừng ông (in trong một tập sách tết, 1943) Nguyễn Công Hoan lại trình ra một cảnh trớ trêu khác. Lần này, ông lấy một chuyện chính ông đã trải để kể với bạn đọc. ấy là một lần, đúng mồng một tết, ông tới thăm nhà một đồng nghiệp dạy học tên là Định. Người này với ông không thật thân nên không mấy khi ông đến chơi. Mà ông lại không nhớ số nhà, chỉ ang áng quãng ấy quãng ấy. Vào cửa, ông được con sen trong nhà tưởng là khách quen nên mời ngay lên gác để gặp chủ và trong khi đang lên cầu thang, ông được chủ mời làm một chân tổ tôm. Nghe tiếng, đã hơi ngờ ngợ, đến lúc chủ nhà ngẩng mặt lên, mới biết đã vào nhầm nhà, đành xin lỗi quay ra. Lúc ông xuống thang còn nghe chủ nhà mắng đầy tớ:

– Con ranh con, cửa cứ mở toang, ông Hoan đấy chứ, giá là kẻ gian thì có chết không?

Đến nước này, tự nhiên tác giả cảm thấy bẽ bàng vô hạn: “Như bị một phát đạn nữa, tôi vội vàng trút trả miếng trầu và điếu thuốc lá, cút thẳng một mạch”.

Kể ra đây cũng là một tình thế trớ trêu, mà người ta ai cũng có thể gặp, nhất là những khi sơ ý.

Có điều, đằng sau câu chuyện mua vui, cái dụng ý của Nguyễn Công Hoan trong thiên truyện này ở ở chỗ khác. Mặc dù là một người ghét lý luận, lại càng ghét sự dông dài trong khi thuật truyện, song trước khi kể lại cái “kỷ niệm để đời” nói trên, Nguyễn Công Hoan vẫn để ra một đoạn dài gọi là trữ tình ngoài đề mà chúng tôi muốn chép lại đầy đủ như sau:

Tối ba mươi tết năm ấy, tôi cố xong tất cả các công việc để đến hôm sau, chịu cái tai nạn nó làm mất cả ngày: nạn tiếp bạn đến mừng tuổi và nạn mừng tuổi bạn.

Sự đi mừng tuổi nhau hôm mùng một đầu năm thật là một cái nạn. Còn gì khổ cho bằng phải tiếp những người hoặc đi đến nhà những người quanh năm chẳng gặp nhau lần nào, trừ tết nguyên đán. Chuyện đã chẳng có gì để nói, mà cứ phải cười gượng, nịnh nhau sằng, rồi mắt trước mắt sau chỉ muốn chuồn cho mau đến nhà khác để cũng làm cái công việc nhạt nhẽo ấy. Còn gì dơ dáng cho bằng mình vừa ở nhà một ông bạn chẳng thân gì, đã không có chuyện để nói, mà độ nửa giờ sau, ông bạn ấy đã lại nghễu nghện đến nhà mình cũng chẳng để nói một chuyện gì hơn là để mình khỏi trách là xử quỵt.

Cho nên, ngày mồng một tết, ở nhà nhưng nói dối là đi vắng, tức là đã làm một việc nghĩa rất to tát. Nhiều ông chỉ cần dò xem mình không có nhà lúc nào là đến tót ngay, để quảng lại trên bàn tấm danh thiếp rồi đi cho mau, để lại quẳng vào nhà khác tấm danh thiếp. Đến nhà người ta mừng tuổi mà được chủ đi vắng, nhiều người cho là một sự may.

Vậy mà lối giao thiệp giả dối này lại rất cần cho những chỗ bè bạn sơ sơ. Vì quanh năm chẳng đến nhà nhau, hôm mồng một tết cũng chẳng đoái hoài đến nhau nốt, ấy là tỉnh bằng hữu đi đứt”.

 

*

*  *

 

Không chỉ các nhà nghiên cứu mà trước tiên, bản thân Nguyễn Công Hoan đã chú ý tới một nét tiểu sử nó quy định tính cách con người ông. ấy là ông xuất thân từ một gia đình phong kiến có nền nếp, thứ phong kiến thanh đạm, biết giữ đạo trung dung, và thường có một chút bảo thủ trong cách nhìn nhận sự đời. Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, thì gần như đã thành một quy luật ở ông: “Nếu có quan hệ đối lập giữa nam và nữ thì ông đứng về phía nam. Giữa bố  mẹ và con cái thì ông đứng về phía bố mẹ. Giữa vợ cả và vợ lẽ thì đứng về phía vợ cả”.

Thế thì giải thích làm sao cái trường hợp phá cách nói trên, nghĩa là thái độ ngán ngầm ra mặt của ông với một nghi lễ thiêng liêng và phổ biến trong ngày tết? ở đây, chúng ta phải đối chiếu giữa nghi thức và cái cách người ta thường tiến hành nó để cùng nhận chân ra một sự thực:

Nghi thức ra đời và tồn tại là để bảo đảm tính chất trang nghiêm của một buổi lễ.

Trong những quy định đôi khi rườm rà, cổ nhân cốt lưu ý con cháu rằng đây không phải là một chuyện thông thường mà là một dịp đặc biệt. Các nhà nghiên cứu về Nho giáo thường nói lễ là để bày tỏ cái thành ý, kính ý. Trong cuốn sách viết về Khổng Tử, từ con mắt nhìn của con người hiện đại, Nguyễn Hiến Lê cũng nhấn mạnh “các nghi thức mà ngày nay chúng ta cho là phiền phức chính là có mục đích phát dương những tình cảm đôn hậu của ta”.

Tuy nhiên, là một sản phẩm của lịch sử, nghi thức cũng không tránh khỏi một tình trạng mà ngày nay, ta gọi là sự tha hoá, tức là hình thức không đi kèm với nội dung, và ở một số người trong một số trường hợp, sự cảm động thiêng liêng càng ít thì nghi thức càng trở nên cầu kỳ rắc rối. Nghi thức trong những ngày tết cũng không tránh khỏi sự biến dạng đó. Sự thực này không lọt khỏi con mắt quan sát tinh quái của Nguyễn Công Hoan. Trong ông không chỉ có con người trọng lễ giáo mà còn có con người thực sự cầu thị, chán ghét mọi chuyện phi tự nhiên, giả dối, cho nên ông đã lên tiếng. Mà khi đã nói, thì ông nói khá phũ, đến mức như là hơi trắng trợn nữa.

Về phần mình, giờ đây đọc lại thiên truyện, chúng tôi cho rằng một mặt nghi thức rất cần, bao giờ cũng cần, mặt khác, những gì quá ư cầu kỳ mà lại vô bổ nên được xem xét lại. Và nhất là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không nên tiến hành nghi thức một cách giả tạo.

Với lối nói có phần cực đoan của mình trong thiên truyện nói trên, Nguyễn Công Hoan còn kể là ông chia bạn bè ra làm bốn loại:

Hạng nhất là các bạn quen xoàng hoặc hay giận

Hạng nhì là các bạn quen xoàng nhưng đại lượng.

Hạng ba là các bạn thân vừa

Hạng bét là các bạn thân”.

Và mỗi năm ngày mùng một tết ông cư xử như sau:

Tôi chỉ cần đi chúc tết các bạn hạng nhất, còn từ hạng nhì trở đi, không tết năm nào tôi xử lại sòng phẳng”.

Chúng tôi chép đoạn văn này ra đây, không phải để… khuyện bạn đọc làm theo, mà là để bạn đọc tham khảo và tìm ra cách đi chúc tết tốt nhất và phù hợp nhất với bản thân.

 

 

52. Từ ảo tưởng hão huyền đến cố thây trắng trợn

(Hình ảnh một lớp người cầm bút tiền chiến qua truyện ngắn Cái tết của những nhà đại văn hào của Nguyễn Công Hoan)

 

Đầu năm Canh Thìn (tức đầu 1940), nhà văn Nguyễn Công Hoan đã viết truyện ngắn này cho một số báo Tết. Cũng như những Một tin buồn, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Thế là mợ nó đi Tây – cái tên đặt cho thiên truyện có ý nghĩa mỉa mai. Thực chất, nó kể lại một cái tết nhếch nhác thảm hại của mấy người làm nghề cầm bút trước 1945.

Mở đầu thiên truyện là nỗi hí hửng của thi sĩ Vũ.

Đang lo không biết sống sao cho qua mấy ngày tết, anh chợt nghĩ ra một lối thoát: đến ăn chực ở nhà cây bút tiểu thuyết Lê. Nhưng Lê cũng đang trong cảnh túng quẫn. Cả hai bèn nghĩ ra mẹo là rủ nhau nhảy dù đến nhà kịch sĩ Trần. Anh này cũng đang đói nốt, nên nhập ngay với Lê, Vũ, thành một bọn giong tàu điện về ám nhà Nguyễn. Song nhà Nguyễn cũng không khá gì hơn, vợ Nguyễn đi xoay món nợ khẩn chưa về. Đã tới bước đường cùng cả bọn không còn biết đi đâu thành ở đấy báo vạ. Cho đến sáng mùng một, “Cả nước Nam mà có lẽ cả nước Tàu nữa, nghĩa là một góc địa cầu, đang vui vẻ ăn Tết” thì bốn anh em vẫn “ nằm khàn, đắp chăn xù xù, chưa thèm dậy”. Họ chỉ có cách “ăn tết bằng những giấc ngủ ngon lành và nói những chuyện văn chương” cho hết thì giờ.

Từ thiên truyện, cái ý nghĩa đập vào mắt mọi người đã quá rõ. Khi người trí thức kiếm chưa đủ sống, thì không ai có quyền đòi hỏi ở họ lòng tự trọng, chí tiến thủ, nỗi lo đời – cùng là đủ thứ phẩm hạnh cao quý khác. Nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà nghèo – cái nghèo đã thành gia truyền trong các gia đình trí thức, từ thời Nguyễn Công Trứ (Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cần no” ) đến thế sệ Tản Đà, Nguyễn Công Hoan vẫn còn nguyên vai trò của nó. Nó là nguồn gốc của bao nhiêu chán chường oán giận thất vọng cay đắng từng đến trong lòng mỗi người. Hơn thế nữa, khôn ngoan đến cửa quan mới biết giàu có đến ba mươi tết mới hay, cảnh tết “ngủ trừ bữa” của những Vũ, Lê, Trần… ở đây còn làm bộc lộ mấy căn bệnh độc ác đang hoành hành trong giới cầm bút bấy giờ.

Một là tâm lý A.Q, tự mình lừa mình. Trong cảnh khốn quẫn, họ tự an ủi “nghề của mình là nghề cao thượng nhất vì nó thật thà nhất… Mình không như những đứa làm bất cứ nghề gì khác ở xã hội này. ở xã hội này, họ không cần giỏi nghề bằng giỏi khen rắm quan thơm và giỏi nói dối với nói phét” Nghiêm khắc mà xét, phải nói đó là những ý tưởng hàm hồ: chính trong nghề văn không thiếu những kẻ dối trá, nịnh nọt, làm đủ việc độc ác để tiến thân, khiến người ngoài nghề không thể tưởng tượng nổi là có lúc họ đã viết nên bài thơ này cuốn tiểu thuyết nọ. Nhưng thôi, cứ tạm cho qua. Lúc nghe thi sĩ Vũ bảo: “cái nghèo của nhà văn là cái nghèo thanh cao, cái nghèo đáng trọng, cái nghèo phải ghi vào lịch sử văn học của thế giới”, người ta mới thấy họ đã đi tới cùng của lối tự mê hoặc, tự tạo ra những ảo tưởng hão huyền. Giá Vũ, Lê,Trần là những nhân vật có thực và đến nay còn sống, chắc họ sẽ thấy chả có thứ lịch sử văn học thế giới nào rỗi hơi nhắc tới những cuốn sách nhảm nhí cùng là ghi lại cảnh nghèo túng quẫn bách của họ cả.

Hai là, do đã bị cuộc sống hành cho khốn đốn quá lâu, ở những Vũ, Lê, Trần, Nguyễn này dần dần nảy sinh ra tâm lý cố thây trắng trợn mà họ không tự biết. Đây chính là lời Vũ bàn trên đường “hành quân” đến nhà Nguyễn:

Được đến đâu hay đến đó. Chúng mình đi đâu mà chết đói được. Nó không có nhà đã  có anh em nó tiếp chúng ta. Và nếu không gặp ai, chúng mình cứ vào bừa một nhà nào đó, chẳng lẽ người ta nỡ hất hủi ba nhà đại văn hào à?

Còn đây là lời Nguyễn nói với các bạn.

– Tao tưởng chúng bay đến chơi với tao thì tao mới tiếp. Chứ chúng bay đến chơi với cái bánh chưng nhà tao, thì tao tống cổ bây giờ.

Cái giọng rất phũ ấy, một nhà văn – nếu thật sự là một trí thức – không có quyền nói, dù là nói đùa: ở đây, nhân vật không hoàn toàn đùa, đây là nửa đùa nửa thật! Lại nữa, một câu tuyên ngôn của cả bọn: “Chúng ta là những đại văn hào chúng ta không cần gì hết”. Câu nói thoạt nghe vô thưởng vô phạt, nhưng ngẫm cho kỹ, thấy không được. Tư tưởng của các nhân vật lúc này đã đi gần tới sự hư vô, với họ chúa đã chết không còn gì là linh thiêng phải giữ gìn nữa.

Từ thằng ăn cắp, anh lính gác đến các viên công chức quèn rồi các điền chủ phất lên thành hàn nọ, nghị kia, các quan phủ, quan huyện… nhân vật của Nguyễn Công Hoan thường có một số nét chung: trắng trợn, bất cần, những cách nghĩ của bọn lưu manh. Lúc đầu, nhân danh cái nghèo, họ cho phép mình làm đủ thứ xấu xa, miễn sao sống sót. Về sau đã có danh có lợi rồi, thói quen suy nghĩ của bọn du thủ du thực trộm cắp lừa đảo vẫn còn nguyên trong họ.

Với Cái tết của những nhà đại văn hào, người đọc lại bắt gặp chất lưu manh ấy trong lớp người làm nghề thoạt nghe rất sang trọng là nghề cầm bút. Thật rõ – nhân vật nào của nhà văn ấy. Trong khi mang dấu ấn riêng của Nguyễn Công Hoan, thiên truyện đồng thời phác ra một cách chân thực hình ảnh một lớp trí thức quặt quẹo được hình thành trong xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ này với những căn bệnh vô phương cứu chữa của nọ.

53. Minh Niên giáng bút

(Hay là những lời phán xét lẫn nhau giữa các nhà văn tiền chiến in trên một số báo Ngày Nay năm 1940)

 

Nói cho cùng thì ở mọi nghề đều thấy có hiện tượng mọi người mang tên tuổi, tính nết  và công việc của các đồng nghiệp ra mà chế giễu. Lý do là bởi sự đời lắm vẻ, mỗi chúng ta dù có cố gắng dến mấy cũng chẳng bao giờ vừa lòng với nó. Huống chi lại còn bao nhiêu bực bội khó chịu nảy sinh hàng ngày, nếu như không có nụ cười thì sống sao nổi! Mà các đối tượng mình hiểu sâu nhất để rồi dễ mang ra cười cợt nhất, và giá có cười quá to, cười sỗ sàng một chút, cũng dễ được tha thứ nhất: ấy vẫn là các đồng nghiệp gần gũi. Giá như ai có để công sưu tầm, chắc sẽ làm thành những bộ sách lý thú, đại loại nụ cười viên chức, nụ cười nghề y, nụ cười nhà giáo. Thế nhưng nói chung nhiều người vẫn thường có cảm giác rằng sự đùa bỡn chế giễu nhau trong giới cầm bút là phổ biến hơn. Tại sao? Một là ở đây người ta dễ nhận xét nhau đau hơn, ác hơn, điểm huyệt đích đáng hơn; và hai là nếu có các nghề khác lời chế giễu chỉ được truyền khẩu thì ở cái nghề này, câu đùa bỡn, nhất là các vần thơ, lại thường được chép ra trên giấy trắng mực đen. Sẵn báo chí trong tay, các đương sự thường tìm bằng được những cách nhét mọi chuyện vui về các đồng nghiệp vào những chỗ đầu thừa đuôi thẹo trên trang giấy để thiên hạ cùng được thưởng thức, và dù in chữ nhỏ, in vào chỗ khuất đến mấy, mọi người đều tìm dọc – báo ngày hôm nay đã vậy mà báo ngày xưa cũng vậy. Trên con đường phiêu lãng đọc lại báo chí thời tiền chiến, có lần chúng tôi đã “cất được một mẻ chắc tay” gồm hàng loạt những câu châm chọc đùa bỡn nhau loại này, nhân dịp đầu Xuân xin trình lại để các bạn cùng thưởng thức.

Số là, vào thuở đang thịnh, Tự lực Văn đoàn của nhóm các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng… nổi lên như một tổ chức văn học đầy uy tín tới mức họ thường xuyên đùa giỡn trước mặt mọi người, “xoa đầu’ anh em trong giới. Nhân một số báo xuân, Lê Ta (Thế Lữ) cùng Tú Mỡ mở mục “Minh niên giáng bút, mượn lời một bà già khăn chầu áo ngự để “phán” về các đồng nghiệp… Theo chính Lê Ta và Tú Mỡ nhấn mạnh thì trong “lời phán” này” có những chữ, hoặc những nghĩa, hoặc những ý tứ có liên quan đến tên tuổi, đến tâm tính hay công việc của từng người”. Bởi vậy, mặc dù không chỉ đích  danh, song đọc lời “phán” mọi người ai cũng đoán ra ngay người được “phán”. ấy là không kể, trong một số báo tiếp, Ngày Nay còn cho đăng những bài hưởng ứng của bạn. Bởi lẽ đó, thỉnh thoảng có những trường hợp mà một nhà văn nhà thơ đương thời được nhắc nhở tới hai lần.

Dưới đây là một ít câu Minh niên giáng bút loại khá nhất. Đọc lên, nghe cũng vui vui, bởi lẽ chúng chỉ dừng lại ở một vài chi tiết vô thưởngvô phạt:

Về Tam Lang

Tưởng người cùng xóm văn chương

Học đòi lại muốn theo phường kéo xe

Nhưng thân phục phịch nặng nề

Kéo xe chẳng nổi quay về kéo… văn

Về Nguyễn Tuân

Nghe vang theo bóng một thời

Tên này thực biết vâng lời người trên

Bây giờ gần gụi ả phiền

Hỏi han câu chuyện ngọn đèn dầu ta.

Hoặc cũng châm chọc, nhưng chưa đến nối ác ý quá đáng:

Về Lê Văn Trương

Nói năng hùng dũng hơn người

Khôn vì xuôi ngược đã mười năm xưa

Đầu làng sức mạnh có thừa

Vỗ vào ngực thét: tôi thờ trái tim

Về Lưu Trọng Lư

Cái tên này cũng đáng ngờ

ấy bình hương khói hay lừa nặng cân

Làm thơ giàu điệu nghèo vần

Ra đời với bác sơn nhân độ nào

Về Lan Khai

Tên đâu trái ngược lạ đời

Là hoa mà lại có mùi… chẳng thơm

Tài trông anh Mán phi gươm

Chú Mèo lãng mạn, cô Mường ngâm thơ

Cũng về Lan Khai

Tên là Lan ở trên đời

Chẳng thơm hẳn đã có mùi khai khai

Viết văn kể chuyện dông dài

ở trên mạn ngược làm vui đường rừng

Về Nguyễn Công Hoan

Rằng tên thì thực là vui

Nụ cười thoang thoảng  có mùi ngang ngang

Vai hề to tiếng hý trường

ở trong động quỷ là phường ranh ma

Một điều dễ nhận xét là người viết những đoạn giáng bút này là Lê Ta và Tú Mỡ, lại in ngay ở báo Ngày Nay, nên dễ có tình trạng nhẹ tay với người nhà. Mà trong văn thơ châm biếm, đã nhẹ tay, đã hiền lành, thì bao giờ cũng khó hay. Đây là những đoạn giáng bút tả các nhân vật Tự lực Văn đoàn.

Về Khái Hưng

Khá đem góp tiếng trên đầu

ý mầu ai hiểu cỏ mầu được đây

Hư không nào có ai hay

ưng điêu chắp nối đổi thay khôn lường

Về Hoàng đạo

Trong hàng lớn nhỏ từ xưa

Ra đời lại chọn đúng giờ xấu xa

Tinh khôn nay đổi lại giờ

Tâm tâm niệm niệm ấy là người hay

Cả hai đoạn này, chỉ dùng những biện pháp mang tính cách tiểu xảo, như tả Khái Hưng, dùng lối chiết tự, ghép chữ, tả Hoàng Đạo, nhắc tới lý do có liên quan đến hai bút danh Tứ Ly và Hoàng Đạo – nên cả hai  đều nhạt. Trong số các giáng bút ra người của Tự lực Văn đoàn, chỉ có mấy doạn sau đây là tạm được.

Về Tú Mỡ

Danh thì mập, thực thì còm

Chỉ già béo mép béo mồm béo văn

Khi cười phá, lúc cười gằn

Người toe toét miệng, kẻ nhăn nhó mày.

Về Lê Ta

Ngọt ngào khi cũng ngọt ngào

Liệu chừng không khéo cắn vào ghê răng

Bấy lâu ở giữa rừng văn

Kẻ ưa cũng có, người căm cũng nhiều

Về Thạch Lam

ấy hay sắc đá lạ nhường

Để phơi dưới nắng trong vườn ngày nay

Nghe hơi sương lạnh qua cây

Biết là luồng gió heo may mới về.

Ngược lại khi tả về các nhân vật không phải Tự lực Văn đoàn, nhất là những cây bút từng có lần va vấp với một ai đó, hoặc Khái Hưng, hoặc Nhất Linh, hoặc Tú Mỡ… lời thơ Minh niên giáng bút có phần chớt nhả, và đi gần tới xúc phạm.

Về Vũ Trọng Can

Gan to, gan nặng lạ lùng

Bởi vì trong óc hẳn không có gì

Thế mà cũng dám ti toe

Nói năng viết viếc để loè tài hoa.

Về Ngô Tất Tố

Gặp khi tắt lửa tối đèn

Mập mờ tài trắng hay hen hơi tài

Vì ta phát giác ra ngoài

Mười năm hương lửa cũng hoài luống công

Về Ngọc Giao

Tên này mới quý làm sao

Còn văn thì chẳng bún nào mềm hơn

Tài năng nhũn nhẽo như lươn

Xui chàng yêu ả, chị hờn với anh.

Đọc những đoạn “giáng bút” này, người ta có thể hiểu tại sao đương thời, Tự lực Văn đoàn bị ghét: họ không công bằng. Và trong một số trường hợp họ tỏ thái độ bề trên – là điều tối kỵ trong quan hệ với các đồng nghiệp

Dẫu sao, các đoạn “giáng bút” này cũng như những câu đùa bỡn châm chọc nhau, cũng ghi nhớ lại không khí sinh hoạt văn học một thời. Có thể mỗi nhà văn đọc chúng với thái độ khác nhau, người này vui vẻ, người kia bực mình, Nhưng nhiều bạn đọc thì thấy thú vị. Trong một truyện ngắn mang tên Huyền thoại phố phường, Nguyễn Huy Thiệp từng nói tới vai trò của những “mẩu chuyện hậu trường” loại này trong đời sống hàng ngày “bữa ăn có Phúc thú vị hẳn lên. Phúc kể chuyện khéo, ông biết nhiều giai thoại ngộ nghĩnh của giới văn nghệ. Trong một bữa ăn phong lưu, thật chẳng có món gia giảm gì hợp vị hơn là món ấy”. Nhưng đó không phải chỉ là thói quen của những người ngày nay: ngày xưa cũng thế.

 

58. Lớp nhà nho cuối cùng và

cuộc kháng chiến chống Pháp

Sinh năm 1966, nguyễn Đỗ Mục thuộc loại các nhà văn viết báo dịch sách từ hồi mới có chữ quốc ngữ, và trong tâm trí các thế hệ sau, tên tuổi ông gắn liền với những bộ sách từ tiếng Hán sang tiếng Việt như Bình Sơn lãnh yên, Tái sinh duyên, Đông Chu liệt quốc. Khoảng từ 1932 trở đi, hầu như ông đã ngừng viết. ấy vậy mà trong một số tạp chí Văn nghệ ra trong kháng chiến chống Pháp – số đầu xuân 1949 – người ta lại được đọc một bài thơ ngắn của ông:

Tản cư nhiều ông cũng như tôi

Suốt ngày thở ngắn lại than dài

Vì ông yêu nhà hơn yêu nước

Hỏi đến việc nước ông nhờ trời

Trời rằng anh này khéo dở hơi

Ai làm cỗ sẵn mời anh xơi

Miếng cơm độc lập mà giả hiệu

ăn vào cay đắng lắm anh ơi

Đằng sau mấy dòng thơ đơn sơ, người ta nhận ra một tâm sự thành thực: tuy tuổi già, sức yếu, tôi vẫn hướng về kháng chiến và tôi rất hiểu những vất vả hy sinh của công cuộc chiến đấu giành độc lập.

Đây có lẽ chỉ là một bằng chứng bé nhỏ về sự có mặt trong kháng chiến của một lớp người đặc biệt, các nhà nho xuất thân cửa Khổng sân Trình và thường thấy thoải mái nhất trong bộ khăn đóng áo dài. Nên nhớ là phần lớn cụ cử cụ tú này đều sinh từ thế kỷ trước, nghĩa là tới 1945, nhiều cụ đã ngấp nghé tuổi lên lão. Và sự thực là chỉ theo con em đi kháng chiến vài năm, rồi do tuổi già sức yếu và nhiều lý do khác (đôi khi là những lý do rất chính đáng) họ đành chịu cảnh “nửa đường đứt gánh”. Một số tạm về thành. Một số mất ngay trên những chặng đường kháng chiến: Cụ Nguyễn Văn Tố (sinh 1889) mất 1947, cụ Nguyễn Đỗ Mục nói ở trên mất khoảng 1949, cụ Võ Liêm Sơn (sinh 1888) mất 1949, ông đầu xứ Ngô Tất Tố (sinh 1894) mất 1-5-1954. Nhung cũng còn không ít người theo được kháng chiến đến cùng và trở thành những nhân vật thường được nhắc nhở, trong số đó có trường hợp Phan Khôi (1887-1959).

Do những xô đẩy của hoàn cảnh nên mặc dù quê ở Quảng Nam-Đà Nẵng, nhưng  khi kháng chiến chống Pháp, nhà nho đất Quảng này lại có mặt ở Việt Bắc. Bấy giờ tác giả Tình già (bài thơ đã đi vào lịch sử) đồng thời là ngòi bút tả xung hữu đột trong các cuộc tranh luận trên Phụ nữ tân văn, Sông Hương… tuổi đã cao, nên không thể thường xuyên có mặt trong các hoạt động báo chí, mà đi vào nghiên cứu. Tháng 7-1948, tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai họp ở Đào Dã, Việt Bắc, ông được cử vào tiểu ban ngôn ngữ văn tự, mà trưởng ban là Nguyễn Lân và trong ban còn có các thành viên như Nguyễn Xiển, Đoàn Phú Tứ… Tại hội nghị này, Phan Khôi đã đọc một bài thuyết trình dài mang tên Một phương pháp dạy văn pháp tiếng ta (văn pháp, ngày nay thường gọi là ngữ pháp).

Nhưng gần như suốt thời kỳ kháng Pháp, môi trường hoạt động của Phan Khôi là Hội Văn nghệ, tại đây ông được coi như một văn sĩ đầu đàn và đã có mặt trong nhiều hoạt động của Hội. Chỉ cần đọc lại tạp Văn nghệ hồi ấy thì biết. Ví dụ, khoảng 1949, Hội Văn nghệ Việt Nam có phát động phong trào văn nghệ sĩ đầu quân, văn nghệ sĩ đi mặt trận và hoạt động này được phản ánh khá rõ nét trong bài báo của Thao Trường (số ra 11-12-1949). Sau khi điểm qua hàng loạt nhân vật nổi tiếng “Nguyễn Đỗ Cung chia thuốc vẽ cho anh em hoạ sĩ” “Đoàn Phú Tứ chân đất đi tìm hàng đóng dép”, “Văn Cao: trước hết muốn là một người cán bộ”… bài viết để một đoạn dài đặc tả Phan Khôi.

“Và quắc thước, nghiêm nghị, nhiệt thành, tôn trọng kỷ luật, đấy là cụ Phan Khôi. Cái ba lô nằm nghiêng trên lưng, áo tuýt-xe lụa cũ, chiếc gậy bịt đồng thẳng như tấm lòng và lời nói của cụ…”.

Và đây, hình ảnh Phan Khôi ở giây phút long trọng nhất của buổi lễ xuất phát.

“Khi cụ bước lên bục, một cán bộ quân sự sợ cụ yếu đỡ cụ. Cụ đẩy tay anh ra. Trong thâm tâm, cụ không muốn tuổi già được riêng biệt đãi. Mắt cụ hơi ngơ ngác, nhưng trên khuôn mặt nghiêm khắc, hình như thoáng một nét cười.

– Tôi là một đoàn viên trong đoàn văn nghệ sĩ đi chiến dịch, thế mà tôi được lên nói, là vì tôi nhiều tuổi. Già mà đi thì cũng lạ một chút. Tôi chỉ xin giải thích thế này. Chuyến này tôi đi với ai? Tôi đi với đội viên. Chắc là đội viên sẽ lo ngại, cho là cái anh già này đi sẽ làm họ vướng víu. Vậy xin bộ chỉ huy nói với đội viên rằng, tôi đi được, một ngày tôi đi được ba bốn chục cây số. Và tôi xin hứa rằng – cụ dằn từng tiếng – trong khi đi, tôi sẽ không dám phiền bộ chỉ huy, không phiền một ông vệ quốc quân nào đưa tôi về.

Mục đích của tôi đi chiến dịch là thế nào? Là nhìn sự thật mà viết (…) còn như nhiệm vụ là một, kỷ luật sắt là hai, tôi chưa biết có chịu được không…

Lời cụ đến đây, như từng nhát búa, mắt cụ long lanh:

– Nhưng tôi muốn chịu.

Cụ vác gậy về chỗ, chống gậy nhìn lên. Tiếng hoan hô như nước dâng. Trăm ngàn con mắt châu tuần vào cụ. Nhạc binh tấu bản nhạc Lên đường lập chiến công.

Còn đây là những lời Chế Lan Viên kể về Phan Khôi. Tường thuật hội nghị Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam mở rộng họp trong các ngày 18 đến 20/3/1951 để chào mừng Đảng Lao động Việt Nam ra mắt, Chế Lan Viên chép ra đầy đủ lời phát biểu của Phan Khôi, kèm theo nhận xét “Bác Phan đã nói những lời chân thành nhất”. Rồi Chế Lan Viên tiếp:

“Tôi không được dự cái buổi bác Phan lên đường đi chiến dịch năm nào, nhưng xem tả trong báo, thì đó là một hình ảnh đẹp. Tôi tưởng hình ảnh bác Phan hôm nay ở giữa hội trường, râu dài, tóc trắng, nói lên những lời rung động cả tâm can hội nghị, tôi tưởng hình ảnh ấy còn đẹp hơn (…) Bác Phan ơi, bác đã già nhưng đường bác còn dài lắm, cây gậy của bác còn phải khoẻ mới chống nổi bác đấy, chứ chẳng chơi đâu”.

Ba năm sau, kháng chiến thành công, cụ Phó bảng Bùi Kỷ, cụ tú Phan Khôi trở về Hà Nội ở tuổi 67 (các cụ đều sinh 1887). Cùng với họ, có thể kể thêm Trịnh Đình Rư (sinh 1893), Doãn Kế Thiên (sinh 1894), Trần Văn Giáp (sinh 1898) v.v… và v.v… Một số cụ sẽ sớm bắt tay vào cái việc chờ đợi từ lâu, mà cũng là công việc phi các cụ ra, khó lòng tìm được người làm thay, ấy là dịch các bộ sách viết bằng chữ Hán của cổ nhân ra chữ quốc ngữ.

 

 

59. ở Việt Bắc, những năm ấy

Để hiểu thêm về sinh hoạt văn hoá những năm kháng chiến chống Pháp, một việc có thể cùng làm trước tiên là thử ôn lại đôi nét thuộc về cuộc sống hàng ngày của các văn nghệ sĩ đã làm việc và trưởng thành trong những năm tháng gian lao ấy.

 

Căn phòng nhỏ của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi thuộc một ngôi nhà xây tạm ngay sau Nhà hát lớn thành phố. Trên tường khéo léo điểm xuyết một ít hoạ tiết trang trí mô phỏng các mặt nạ sân khấu. Góc phòng, một tủ sách đơn sơ, nhưng nhìn kỹ cả sách tiếng Nga, tiếng Pháp. Một sự hiện diện ôm trùm nữa là sự hiện diện của Thế Lữ – ảnh chụp có, tranh chân dung có. Khung cảnh bài trí từ lâu, song có vẻ như nó cũng rất thích hợp trong việc làm nền cho câu chuyện mà vào những ngày cuối năm 1996 này chúng tôi hay nói với nhau: những tác động đồng thời cũng là những đóng góp của cuộc kháng chiến vào sự nghiệp xây dựng nền văn hoá dân tộc, nửa thế kỷ qua.

Những thay đổi diễn ra trong cách sống cách nghĩ của lớp văn nghệ sĩ cũ.

Trong cơn lốc của lịch sử, số phận của giới văn hoá Việt Nam lại càng gắn chặt với số phận của toàn dân tộc. Chẳng những thế, cuộc kháng chiến thần thánh sớm tự xác định là một cuộc chiến đấu có văn hoá, và sự thực là đã lôi cuốn được hầu hết những người hoạt động văn hoá nhập cuộc. Người ta bắt gặp ở Việt Bắc – đầu não của cuộc kháng chiến lúc ấy – những tên tuổi lớn của nền văn hoá cũ, Hoàng Minh Giám và Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Đạo Thuý và Lưu Hữu Phước, Phan Khôi và Nguyễn Tuân… Về phần mình, ngoài cái may mắn là con nhà nòi (con trai nhà đạo diễn Thế Lữ), gần như suốt thời kháng chiến, Nguyễn Đình Nghi còn có dịp công tác ở ngay Hội Văn nghệ Việt Nam và các đơn vị kề cận với Hội. Thành thử lẽ tự nhiên là ông thuộc người thuộc việc. Và ông đã tận mắt thấy cái sức mạnh cải tạo của kháng chiến đối với những người làm văn hoá cũ là như thế nào. Ông kể:

“Anh phải nhớ là ngay trước 1945, dân mình đã ghét Pháp lắm rồi, nên nói gì thì nói, khi các ông Đảng mình phất lên ngọn cờ đánh đuổi thực dân là tập hợp được gần hết giới văn hoá. Một người như Phan Khôi mà lúc ấy cũng hào hứng lắm. Trong một bài báo tả văn nghệ sĩ xung phong đi mặt trận, Nguyễn Huy Tưởng còn ghi lại cái hình ảnh Phan Khôi chống gậy lên phát biểu rất rắn rỏi cơ mà.

“Tôi nhớ có lần cùng ông đi công tác, mới ghé vào một quán bên đường. Chị chủ nhà ra chiều thông cảm, phải lúc loạn lạc, các cụ các ông vất vả quá. Phan Khôi trừng mắt ngay, sao lại gọi là loạn lạc, cả nước đoàn kết để đánh Pháp thế này, phải gọi là thịnh trị chứ.

“ồ, nói tới cái chuyện sinh hoạt của văn nghệ sĩ hồi ấy thì lạ lắm. Hãy thử tưởng tượng một ông như ông Hoài Thanh cao lêu đêu như thế, song lúc nào cũng đi đất. Có lẽ ông cho rằng làm thế để cải tạo con người mình. Anh em góp ý kiến là phải giữ sức khoẻ, ông ấy nghe ra, nhưng chỉ đi dép lúc ở nhà, đi công tác vẫn đi đất.

“Sinh hoạt cơ quan văn nghệ lúc ấy cũng đâu vào đấy, như các cơ quan khác. Cũng họp kiểm điểm hàng tuần. Cũng tăng gia, cũng viết bích báo. Tôi có đi giục mọi người viết bài cho bích báo, những ông như ông Nguyễn Đình Thi thường cũng vui vẻ nhận lời và nộp bài đúng hẹn. Hoặc ông Tô Hoài, ông này viết giỏi thế nào thì làm công tác cơ quan cũng giỏi như vậy.

“Nếu ai đã từng biết các ông ấy hồi tiền chiến thì mới lại càng khâm phục cái sức mạnh cải tạo của cách mạng – tất cả đều đã thay đổi đến không ai ngờ nổi” – Nguyễn Đình Nghi kết luận.

Việc đào tạo những văn nghệ sĩ mới

Sinh năm 1928, nhà đạo diễn này thuộc thế hệ những người làm nghệ thuật bước vào tuổi thanh niên khi tiếng súng toàn quốc bắt đầu bùng nổ. Trong khi những Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Phan Tứ, Nguyên Ngọc… trưởng thành sớm về công tác ở các đơn vị cơ sở, thì Nguyễn Đình Nghi hồi ấy một thời gian còn đóng vai học việc, chẳng hạn chỉ giữ chân thư ký ban văn thuộc vụ Văn học nghệ thuật (do Hoài Thanh là vụ trưởng) và giữ thư viện nhân thể.

Có điều, chính trong cái vai trò phụ trợ ấy, Nguyễn Đình Nghi lại có dịp học hỏi nhiều điều, và trường hợp của ông cho thấy một công việc khác của kháng chiến: việc đào tạo các trí thức văn nghệ sĩ thuộc thế hệ trẻ.

“Năm ấy tổ chức đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất. Cả Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi đều đi dự và trở về, mỗi người đều có nhận xét riêng của mình. Ví như Nguyễn Đình Thi, ông bảo “Được dự đại hội mình thấy cái dự trữ phấn khởi cách mạng – chỗ này Nguyễn Đình Thi nói bằng tiếng Pháp – được bổ sung thêm rất nhiều”.

“Đấy là về tư tưởng. Còn như về nghệ thuật, quả thực lúc đầu tôi cũng chưa hiểu nghệ thuật là gì. Song ở với các ông ấy, dần dần vỡ ra hết. Ngay trong hoàn cảnh kháng chiến, thiếu thốn đủ thứ, Thế Lữ vẫn rất nghiêm túc trong lao động nghệ thuật. Ông thường bảo: Nghệ thuật sân khấu bắt đầu từ việc căng cánh gà cho thẳng. Anh thử tưởng tượng được xem Thế Lữ dàn kịch đã thú thế nào đến lúc được nghe mọi người nhận xét về kịch Thế Lữ lại có cái thú khác. Mình học ở đấy.

“ Tấm lòng yêu kính nghệ thuật dân tộc của các ông ấy cũng kỳ lạ lắm, không chê vào đâu được. Ông Nguyễn Xuân Khoát có bài hát Thằng Nhai, thằng Nha nói về mấy anh thương binh về làng, trong đó có mấy câu đệm ca-la-pịch ca-la-pắc ca-la-poong (để gợi lại tiếng nạng trên đường). Ông Xuân Diệu nhận xét ngay: Không được! Trong tiếng Việt không có từ bắt đầu bằng phụ âm p. Và ông Khoát ông ấy phải sửa thành ca-la-kịch, ca-la-cắc, ca-la-coong…

“Bây giờ nhìn lại, chắc ai cũng cắt nghĩa: chính là trong khi chiến đấu giành độc lập mà mình thêm yêu dân tộc mình hơn. Song hồi ấy, chỉ thấy say cái đã. Tôi nhớ khoảng 1952-1953, phong trào khai thác vốn cổ dân tộc đang rất rầm rộ, một hôm đi công tác về đến bến đò gần thị xã Tuyên Quang tôi được mấy anh chị em ở đoàn văn công ra đón, đêm trăng lại lần đầu được nghe những cô Dần, cô Nhạn hát mấy bài quan họ loại như Trèo lên trên núi Thiên Thai tôi cứ ngơ ngẩn cả người, sao văn nghệ dân tộc ở mình nó đầm ấm mà vẫn lộng lẫy đến thế. Về sau, hỏi mọi người, thấy ai cũng có cảm giác tương tự – những đêm diễn chèo sân đình, các vị lão làng cỡ Ngô Tất Tố, Tú Mỡ người nào cũng khoái trá ra mặt, nói nôm na là cũng giống mình, há hốc mồm ra mà xem, rồi cười ha hả”.

Nhưng ngoài việc khai thác vốn cũ, kháng chiến vẫn là một trường học lớn. Theo con đường nào tới không rõ, chỉ biết thư viện Hội Văn nghệ luôn có sách mới, tiếng Pháp và cả tiếng Hán. Giải thích về vốn ngoại ngữ vững vàng của mình, Nguyễn Đình Nghi kể: “Tiếng Pháp tôi học với Đoàn Phú Tứ người được xem như giỏi nhất tiếng Pháp ở đấy. Còn chư Hán, anh có biết tôi học với ai không – với cụ Phan Khôi”.

Năm 1955 hoà bình lập lại, Nguyễn Đình Nghi cùng với những Đình Quang, Ngô Y Linh, Huy Du, Hoàng Vân, Thái Ly… được cử đi học Trung Quốc để rồi khoảng 1960 trở về, chia nhau gánh vác các trọng trách trong đời sống nghệ thuật. Nhưng nhìn lại đời mình mỗi người không bao giờ quên được một điều: mình đã trưởng thành từ kháng chiến.

 

 

60. Bản tổng kiểm kê của mỗi cuộc đời.

Hiểu hồi ký văn học như thế nào?

A. Malraux, nhà văn Pháp, hiện đại, từng viết đại ý “chỉ có hồi ký là những cái đáng viết”. Có vẻ như ông muốn nói người ta chỉ thành công khi viết về những cái mà mình thành thạo hơn cả. Mà chỗ thành thạo đó, thường là chính mình.

Không chắc là nhận xét đó của Malraux bao giờ cũng đúng. Có nhiều người giả dối cả khi viết nhật ký (là thứ viết cho chính mình) đừng nói chi đến hồi ký (là thứ viết cho bạn đọc). Và trên đời này, mấy ai dám chắc tự hiểu về mình một cách thấu đáo?!

Thế nhưng, ít ra nhận xét đó cũng đúng với một số người trong đó có I.Ehrenburg, cây bút có một số phận tiêu biểu cho nhiều nhà văn thế kỷ XX. Khi còn sống, I.Ehrenburg nổi tiếng là người viết nhiều, viết khoẻ, các nhà xuất bản ở Liên Xô đã ba lần làm tuyển tập cho ông, mỗi lần một khác. Vậy mà nếu chọn ra tác phẩm làm cho I.Ehrenburg nổi tiếng hơn cả, thì phải kể là bộ hồi ký Con đường, năm tháng, cuộc đời ông viết khi đã 70. ở đó, tác giả kể ra nhiều chuyện thuộc về hậu trường văn học. ở đó, nói nôm na, ông lật tẩy mình và nhất là lật tẩy nhiều bè bạn cũ, những người đương thời, lật tẩy một cách ngang ngược, nhưng vẫn đau xót, thông cảm. Trong cuốn hồi ký hàng ngàn trang  ấy không phải bao giờ Ehrenburg cũng có cái nhìn đúng đắn, thậm chí khó nói là ông hoàn toàn thành thật, chỉ có điều chắc là ông đã viết rất chủ quan, tức là chỉ tôn trọng trí nhớ của mình. Đấy chính là lý do khiến nhiều người, cả người Nga, lẫn người Mỹ, người Anh, người Nhật… dù khó chịu với tác giả, vẫn thích đọc. Một nhà văn đã nói thẳng ra rằng bắc cân lên mà tính, tập hồi ký này còn “nặng” hơn tất cả những gì Ehrenburg đã viết từ trước. Chỉ có một ông già khôn ngoan quỷ quyệt mới có một cuộc kiểm kê đời mình thông minh đến thế.

Người ta thường nói sống giữa nền văn minh kỳ lạ của thế kỷ XX con người cảm thấy hết sức đơn độc. Lẽ đương nhiên, loại hồi ký đóng vai trò “tôi lật con bài của tôi” như hồi ký của Ehrenburg loại đó rất nhiều, ở nền văn học nào người ta cũng bắt gặp vài ba cuốn.

Nhìn vào tình hình hồi ký ở Việt Nam phải nói ngay là thể loại này đối với chúng ta còn đang xa lạ. Đây đó, chỉ mới thấy in một số hồi ký của các nhà văn kỳ cựu như Đời viết văn của tôi của Nguyễn Công Hoan, Bước đường viết văn của Nguyên Hồng, Hồi ký của Đặng Thai Mai, Từ bến sông Thương của Anh Thơ, Những năm tháng ấy của Vũ Ngọc Phan, nếu tính cả sách in ở Sài Gòn trước 1975 thì có thể kể thêm Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng, Văn thi sĩ tiền chiến của Nguyễn Vĩ v.v…

Nhưng hầu hết các cuốn sách ấy không gây được tiếng vang lớn. Không kể một số cuốn viết dang dở, chưa bắt được vào các mạch chính của câu chuyện, chưa chạm đúng vào khu vực người đọc muốn tác giả “hồi tưởng và suy nghĩ”, một căn bệnh chung của các cuốn còn lại là không khai thác hết những khả năng mà thể loại cho phép: hoặc thiên về kể những chuyện vặt, chuyện tào lao mà thiếu một tầm vóc khái quát, hoặc giản dị hơn, bắt tay viết hồi ký vào lúc tâm lý đã dở chứng, nặng về ca công tụng đức, chỉ chăm chăm tô vẽ cho chính mình, nên độc giả khó tin. ấy là không kể những trường hợp nhớ sai, nhớ nhầm: trong khi ở nhiều nước, nhà văn viết hồi ký thường sử dụng người giúp việc, người sưu tầm, tài liệu, thì nhà văn Việt Nam chỉ đánh vật với trí nhớ, nên có nhớ nhầm cũng là chuyện dễ hiểu. Thậm chí đã có những sai lầm quá đáng đến mức đọc xong hồi ký, người đọc ngờ ngợ, không rõ tác giả định làm hồi ký hay viết tiểu thuyết. Có trường hợp đọc lại sinh ra kiện tụng nhau nữa. Cái đó quá phiền, không chỉ làm cho nhiều bạn đọc nghi ngại, mà cả một số nhà văn cũng đâm chán không muốn bước vào cuộc tổng kiểm kê đời mình nữa.

Nhân tiện, một câu hỏi khác được đặt ra: khi nào thì nhà văn nên viết hồi ký? Khi về già, tất nhiên rồi. Có điều các nhà văn cũng như phụ nữ, thường không thích nhận mình đã già. Họ ngại rằng viết hồi ký, rồi hồi ký được xuất bản, có nghĩa là đời mình đã tới lúc hết. Vậy nên cứ lần chần mãi. Đùng một cái nhà văn qua đời mang theo bao nhiêu kinh nghiệm và từng trải xuống mồ. Cả Nguyễn Tuân lẫn Xuân Diệu, những khuôn mặt sáng giá bậc nhất của văn học Việt Nam trong thế kỷ này, đều không kịp viết hồi ký như vậy. Ngoài ra có lẽ cũng nên lưu ý là cái sự hồi tưởng và suy nghĩ chỉ có ý nghĩa khi được viết bằng một ngòi bút tỉnh táo trong xét đoán việc của đời mình cũng như của thiên hạ. Nói cách khác, người viết chỉ được phép già trên phương diện thể chất mà không được già về mặt tinh thần. Nếu thiếu đi sự trẻ trung tươi mới trong cách nhìn, nếu hoàn toàn là sản phẩm của sự già nua cuốn sách sẽ trở nên không cần thiết cho ai cả.

Mấy cuốn hồi ký in ra gần đây

Từ 1945 tới nay, số lượng hồi ký văn học ở ta được in chỉ đếm trên đầu ngón tay, tính trung bình vài năm mới được in một cuốn. Cũng có thời gian rộ lên, một năm hai cuốn được in. Trong năm 1989 đó là trường hợp Nửa đêm sực tỉnh của Lưu Trọng Lư (372 trang) và Nhớ nghĩ chiều hôm của Đào Duy Anh (284 trang – từ đây trở xuống đều ghi theo số trang bản in lần đầu).

Cuốn sách của Lưu Trọng Lư có một phụ đề rõ ràng: Nhớ lại những mối tình. Nhà thơ không định kể lại hoạt động văn học mà chỉ theo đuổi một ít kỷ niệm trong cuộc đời riêng. Nhân vật chính được nói ở đây, ngoài Lưu Trọng Lư, là người vợ thứ của ông. Tuy vậy, thỉnh thoảng vẫn thấy trong cuốn sách đan xen vào đoạn nhắc nhở tới một trong hai người bạn cũ của tác giả. Chẳng hạn như Nguyễn Tuân.

Thanh hoá là nơi đóng đô của người xê dịch Nguyễn Tuân, tôi không hiểu sao số mệnh lại vấthắn vào đời tôi… Nếu có điểm giống giữa hắn và tôi, đại thể vì tôi là cái mặt trái của Nguyễn Tuân và ngược lại. Chỗ Tuân rộng lượng dung tha thì tôi ích kỷ. Chỗ Tuân ích kỷ thì tôi dung tha… Tôi vốn ăn thế nào, mặc thế nào cũng được, trái lại Nguyễn Tuân ăn theo kiểu Tản Đà. Chỗ ở phải là tổ của phượng hoàng và mặc thì phải như ông hoàng tây (tr. 34)… Văn chương của tôi Tuân chả thú gì, thơ tôi hắn không thuộc một câu nào. Còn “Vang bóng một thời” của Tuân, đối với tôi chỉ là loại văn chương nửa ta, nửa tàu, lồm cồm, cầu kỳ  (tr. 35) Sau Cách mạng tôi vẫn là đứa chồm chồm Tuân vẫn là thằng ngất ngưởng (tr. 36).

Đọc những đoạn ấy, người đọc tiếc rẻ, giá Lưu Trọng Lư viết hẳn một cuốn hồi ký về đám bạn bè này thì hay biết bao nhiêu!

Đào Duy Anh ghi ở đầu cuốn Nhớ nghĩ chiều hôm: Những đêm mất ngủ vì tuổi già tôi muốn ôn lại quãng đường mình đã trải qua, để ghi lại những đắc thất của mình…”. So với trường hợp của Lưu Trọng Lư,  con người xã hội của tác giả hồi ký được tô đậm hơn. Tuy vậy, những chi tiết bất ngờ, những thú nhận bột phát, thường là cái chất muối mặn làm nên phong vị đậm đà của một cuốn hồi ký thì ở Nhớ nghĩ chiều hôm còn thiếu. Riêng 100 trang cuối của cuốn sách lại nghiêng hẳn về học thuật, tác giả đi vào trình bày một số nhận thức của mình về Khổng học, Phật học, vai trò tri thức trước vận mệnh của dân tộc. Đọc những đoạn này không phải là không thú vị (nhất là chương 14 Đối thoại với một nhà đạo học hiện đại là Cao Xuân Huy) song chưa hẳn là cái thú vị của một cuốn hồi ký. Có điều Đào Duy Anh viết xong Nhớ nghĩ chiều hôm từ cuối 1972, tức là 16 năm trước khi ông mất và 17 năm trước khi sách được in. Hoàn cảnh lúc bấy giờ (1972) chưa cho phép tác giả nhìn lại đời mình một cách công bằng thấu đáo. Đến lúc cuộc sống đã mở ra cho ông một viễn cảnh rộng rãi hơn để tự suy xét thì ông đã quá già, không thể viết lại nữa.

Sau đây là một vài cuốn khác mới in đầu những năm chín mươi.

Hồi ký Trần Huy Liệu (560 trang). Cuốn sách được in ra hơn hai chục năm sau khi tác giả qua đời. Nó không phải là một chỉnh thể được viết theo một cách nhất quán, mà thực ra là một sưu tập gồm nhiều đoạn hồi ký, tác giả viết ra trong những thời điểm khác nhau, với những mục đích cũng khác nhau. Song chỉ có thể, cũng đã rất quý, bởi tác giả cuốn sách là một nhân vật của lịch sử Việt Nam hiện đại, trong cuộc đời gần bảy chục năm, ông đã có dịp tham dự vào nhiều sự kiện lớn. Hơn nữa, ngòi bút nhà sử học ấy có lúc đồng thời là ngòi bút của nhà thơ. Nhiều sự kiện được ông kể lại sống động như những kỷ niệm riêng. Do quan niệm đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, những người biên soạn hồi ký Trần Huy Liệu còn làm thêm 24 trang sách dẫn (index), riêng việc này cũng đã chứng tỏ tầm vóc mà cuốn sách vốn có.

Nhớ bạn của Nguyễn Lương Ngọc (170 trang). Tác giả là một nhà nghiên cứu văn học, đồng thời là một nhà giáo lâu năm, từng trải nhiều, giao du rộng. Cuốn sách giống như một bó hoa khiêm tốn. Nguyễn Lương Ngọc tiện tay lượm lại từ ký ức của mình – những kỷ niệm đẹp về các bạn bè đồng nghiệp – để trình ra với các thế hệ về sau.

Cát bụi chân ai của Tô Hoài (bản in ở Hà Nội 296 trang) đặt bên cạnh lối viết “hương hoa” của Nguyễn Lương Ngọc – “hương hoa” là chữ đặt ở bìa 4 của cuốn Nhớ bạn – thì cách làm của Tô Hoài hầu như hoàn toàn ngược lại. Càng ngẫm nghĩ về những điều Tô Hoài dã viết, người ta càng cảm thấy những điều ông biết về Nguyễn Tuân, và rộng hơn, về nghề văn, còn lắm khía cạnh thú vị mà hy vọng ông sẽ trở lại trong một dịp khác.

Sống giữa tình thương của Trần Thị Như Mân, tức bà Đào Duy Anh (88 trang). Không khí dồn nén bao trùm tác phẩm, gợi cho người ta cảm tưởng đây là những gì tác giả vốn đào sâu chôn chặt trong lòng, nay mới có dịp chia sẻ. Lời kể từ tốn, cách viết điềm đạm, song không phải vì thế mà người đọc không nhận ra những điều người viết không tiện nói, không muốn nói ra trực tiếp. Cuốn sách là một gợi ý: bên cạnh các nhân vật quan trọng thì những người thân của họ, cũng có thể là tác giả của những hồi ký có khả năng hé mở những “chuyện riêng” của các nhân vật lịch sử và do đó, có sức thuyết phục.

Hồi ký Nguyễn Hiến Lê (578 trang) và Hơn nửa đời hư của Vương Hồng Sển (604 trang). Hai tác giả vốn có nhiều điểm chung: cùng là những trí thức được nhiều người biết tiếng ở Sài Gòn trước 1975. Cùng thích lối viết trực tiếp và khá kỹ lưỡng trong việc dựng lại quá khứ. Song hai cuốn hồi ký lại có sắc thái hoàn toàn khác nhau. Như xưa nay vẫn vậy, Nguyễn Hiến Lê có phong thái của một nhà giáo, hồi ký của ông vừa bao quát tình hình xã hội những năm ông sống, vừa thứ tự lớp lang rành mạch, và có cái thân tình tự nhiên khi dẫn ra những chuyện tâm tình mà người đọc hồi ký thường chờ đợi. Trong cái vẻ riêng cẩn trọng và thành thực, cuốn sách giống như những lời tâm sự cuối cùng mà tác giả muốn để lại với người đời. Về phần mình, Vương Hồng Sển trong Hơn nửa đời hư hiện ra như một ông già Nam bộ bộc trực, có vẻ gặp đâu kể đấy, nhưng dừng lại ở chỗ nào thì nói thật cặn kẽ, đôi khi càng những khía cạnh người khác không tiện nói, cách nói của ông càng duyên dáng, hấp dẫn. Trong khi hồi ký Nguyễn Hiến Lê mực thước, mức độ và giữ được cái phải chăng của bậc thức giả, thì hồi ký Vương Hồng Sển như một mạch ngầm tự nhiên, bột phát, đúng là viết “không có plan” (dàn bài)”, dự định xong là  “ngồi vào máy gõ lóc có cho đỡ sầu, mặc cho nó tuôn”. Đặc biệt, cái tên tập sách Vương Hồng Sển ngạo nghễ như một thách thức: Hỡi những ai thích bốc thơm đời mình trong hồi ký, tôi đây cóc cần, những thứ đó, tôi biết rất rõ sở dĩ bạn đọc mê tôi, vì tôi kể cả chuyện hư của đời mình chứ không làm bộ làm dáng rằng mình cao xa so với họ…Cố nhiên không thể nói cuốn hồi ký nào cũng nên viết như Hơn nửa đời hư song phải nhận cách làm của Vương Hồng Sển là một thứ phá cách có cái lý riêng của nó, nó đáng được coi như một sự dũng cảm, để khiến cho hồi ký đạt tới độ tin cậy cần thiết.

Vài lời bàn thêm

a. Về mối quan hệ giữa hồi ký với các thể văn hư cấu

Có được những sáng tạo lớn bao quát thời gian, tổng kết lịch sử nhất là khi sự sáng tạo ấy được đúc kết trong một thể văn xuôi lung linh – như tiểu thuyết – thì ai mà chẳng ao ước. Nhưng kinh nghiệm đời sống văn học mấy chục năm nay cũng mách bảo với chúng ta rằng những sáng tạo chân chính cần đến rất nhiều thể nghiệm, hơn nữa còn cần đến cái bệ đỡ vững vàng của văn hoá. Những điều ấy, không phải một sớm một chiều mà có ngay được. Trong khi đó như nguời ta vẫn nói, với tư cách một sự sáng tạo tuyệt vời của tạo hoá, luôn luôn biến thiên, đa dạng, kỳ ảo, đời sống từng biết tới những tính cách lạ lùng, những số phận không bao giờ lặp lại. Phải chăng giữa hai thể hồi ký và tiểu thuyết, sự đặc cược của xã hội vào hồi ký là thiết thực hơn dễ đạt hiệu quả hơn? Có được sự hỗ trợ của các hồi ký, rồi ra sự sáng tạo của các nghệ sĩ sẽ hữu hiệu hơn, và như thế sự xuất hiện ngày một nhiều các hồi ký tốt, là bước chuẩn bị chắc chắn cho những tiểu thuyết chín đẹp trong tương lai.

b. Về tính chân thật, và những hấp dẫn của việc đọc và viết hồi ký

Không ai ấm đầu tới mức tuyên bố rằng những trang hồi ký mình viết ra là bịa dặt, giả tạo. Tính chân thật là yêu cầu thứ nhất đặt ra với một cuốn hồi ký, tưởng như không chân thật thì nó không có lý do tồn tại. Song, nếu có dịp đọc hàng loạt hồi ký, cùng lúc với việc nhận ra rằng sự thật là một cái gì muôn màu muôn vẻ, người ta vẫn không tránh khỏi cảm tưởng cuốn này thật hơn, cuốn kia đắp điếm tô vẽ. Hoá ra chân thật là một cái gì rất khó, không phải cứ muốn là được. Vấn đề không chỉ ở tấm lòng mà còn ở trình độ tự nhận thức của mỗi ngòi bút.

Sẽ là sai lầm nếu tưởng rằng viết hồi ký là chuyện dễ dàng. Để hiểu đúng người đúng mình để đưa ra bức tranh chân dung chân thật, trong lòng người viết phải trải qua một cuộc vật lộn. Song chính vì thế việc viết hồi ký lại có cái sức quyến rũ của những sáng tạo chân chính và việc đọc hồi ký không mấy khi là chuyện nhàm chán.

 

 

61. Ba kiểu trở lại quá khứ

 

Mặc dù vẫn nhớ tới câu nói khinh bạc  Ehrenburgnhớ cho lắm chỉ tổ mệt ngườisong nhiều nhà văn ở ta hiện nay vẫn bằng cách này hay cách khác hướng ngòi bút của mình vào việcnhớ lại và suy nghĩ. Công việc của ba nhà văn Nam Bộ chúng tôi nói tới trong bài này là một ví dụ.

Sơn Nam

Gần đây, mỗi khi có dịp làm các bộ phim về đời sống xã hội ở các tỉnh Nam Bộ trong thời cận hiện đại, các hãng phim nước ngoài thường vẫn mời nhà văn Sơn Nam làm cố vấn về lịch sử và dân tộc học. Bởi tác giả những Bến Nghé xưa, Hương rừng Cà Mau, Văn minh miệt vườn… là một nhà văn rất quan tâm đến phong tục. Trong ông luôn luôn có con mắt nhìn của nhà nghiên cứu.

Được gọi là bút ký, song cuốn sách mới nhất của Sơn Nam mang tên Một mảnh tình riêng có những nét của một cuốn hồi ký hoặc tự truyện. Có điều, đây là một cuốn sách có bố cục rất thoải mái. Nhớ gì ghi nấy, tác giả để mặc cho dòng liên tưởng của mình vận động, và người ta chỉ cảm thấy đuợc tiếp xúc với một tác phẩm thống nhất do nơi giọng điệu của nó. ở đây không chỉ có những chuyện riêng tư có liên quan đến cuộc đời gần 70 năm làm nghề và gần nửa thế kỷ cầm bút của Sơn Nam mà còn có rất nhiều chuyện xưa tích cũ, liên quan đến đồng bằng Nam Bộ rộng lớn và trái tim của nó, là thành phố Sài Gòn thân yêu của bao thế hệ người Việt.

Không quan trọng hoá, không coi thường hoặc đùa bỡn, Sơn Nam kể lại mọi chuyện một cách nhẹ nhàng, từ tốn. Từ chuyện hình thành một tên đất tên làng ở mảnh đất cực nam của Tổ quốc, chuyện các thế hệ cha ông xưa thường truyền về những ngày Pháp mới chiếm Nam Bộ…, tác giả nhanh chóng bắt sang chuyện quê hương và gia đình, chuyện những ngày sau hiệp nghị Geneve, từ chiến khu, bỡ ngỡ về Sài Gòn làm văn làm báo. Chưa hết! Nhiều lúc, tác giả còn đả động đến những vấn đề lớn lao, nào đặc tính của thành phố Sài Gòn là gì, văn  hoá Việt Nam ở các tỉnh Nam bộ ra sao, hoặc những lời đồn đại và thực chất của một vài sự kiện cùng nhân vật lịch sử. Với người viết sách – mà có lẽ với tất cả chúng ta cũng vậy – cuộc sống vô vàn biến hoá, nhiều chuyện động trời động biển, lại cũng nhiều chuyện lặt vặt ngẫu nhiên, vậy mà cái nọ lẫn cái kia đều không sao quên nổi! Nhất là, nếu ai để ý hẳn thấy, trong những điều Sơn Nam coi là đáng nhớ, là làm cho cuộc sống của ông có thêm ý nghĩa, bao giờ cũng có chỗ xứng đáng cho những cuốn sách, những trang báo, cũng là kiếp sống đa đoan của những người trót nhận lấy việc cầm bút làm nghề nghiệp. Được ông nhắc nhở với nhiều trân trọng, không chỉ có những Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Đình Chiểu… xa xưa, mà còn những người đương thời, Lý Văn Sâm, Nguyễn Ngu ý, Bình Nguyên Lộc… Thành thử, ngoài giá trị khảo cứu, cuốn bút ký của Sơn Nam còn có bóng dáng một cuốn tự bạch về nghề văn nữa.

Trang Thế Hy

Cũng như Sơn Nam, Trang Thế Hy sinh vào giữa những năm 20 (một người 1926 một người 1924), lại cũng là một mẫu người Nam Bộ từng trôi nổi qua nhiều biến động của thời cuộc. Chỉ có điều khác là trong khi số sách đứng tên Sơn Nam khá nhiều và cũng khá đa dạng, thì Trang Thế Hy viết hơi ít, chỉ thỉnh thoảng ông mới cho in một tập truyện ngắn. Song có lẽ vì thế mà mặc dù được gọi là truyện, song chất hồi ký ở tác phẩm của Trang Thế Hy vẫn khá sâu đậm. Mỗi truyện được ông viết ra đều là một dịp để tác giả trong khi kể lại một ít kinh nghiệm sống, đồng thời ngẫm nghĩ thêm về lẽ đời, một cuộc đời rất nhiều đen bạc, song vẫn luôn luôn có chút gì đó đáng để cho người ta sống.

Còn nhớ, sau khi đọc thiên truyện Con cá không biệt tăm (in trong Truyện ngắn Việt Nam 1945-1985) một người bạn trẻ đã nói đùa với Trang Thế Hy “Đó là loại truyện, viết xong, người ta có thể buông bút được”. Nay thì trong Tiếng hát và tiếng khóc người viết vẫn cứ lối viết “tổng kết cuộc đời” ấy mà tiếp tục. Tác phẩm được xác định là truyện ngắn và hồi ức, song hầu như thiên truyện nào in vào đây cũng mang đậm tính cách hồi ức. Có truyện đưa người đọc trở về những năm tác giả còn thơ ấu. Có mấy truyện xoay quanh ít kỷ niệm hồi tác giả hoạt động ở Sài Gòn trước 1975. Đến cả những truyện viết về sự việc mới xảy ra một hai năm gần đây, tác giả cũng biết mang lại cho nó một sắc thái “muôn đời vẫn vậy”. Nhân vật của Trang Thế Hy có khi là ông già làm ruộng, chị bán thuốc lá, có khi là một thiếu phụ lỡ độ đường hoặc một nghệ sĩ cải lương về già, nát rượu, khi say khi tỉnh. Song người nào cũng có vẻ như đọc sách nhiều. Thích suy ngẫm và lý lẽ. Nhạy cảm trước vô vàn biểu hiện khác nhau của cái đẹp. Và nói chung là hay tìm tới những khái quát lớn về đời sống. Nghĩa là người nào cũng hao hao như tác giả! Nhưng cái đó không sao! Hiện lên sau các trang sách là một nhà văn không bao giờ quên sứ mệnh của mình, lại muốn luôn luôn trò chuyện với người đọc để nghe ngóng thêm và trải nghiệm thêm. Về mặt bút pháp, đọc Trang Thế Hy người ta bắt gặp một lối kể chuyện chân phương, song chậm rãi, thích ngừng lại để lật xuôi lật ngược sự đời. Cách viết đó có thể không hợp với những ai thích bươn chải và đang mải chạy theo cái đời sống chộn rộn trước mặt, nhưng với những người sẵn sàng đồng tình với A. France “xem việc gợi lại kỷ niệm là một việc làm dịu ngọt” – thì lại là một cách viết thích hợp.

Hoàng Văn Bổn

Tuy chỉ trẻ hơn Sơn Nam và Trang Thế Hy dăm tuổi nhưng Hoàng Văn Bổn thuộc về một lớp nhà văn có số phận khác hẳn. Sau khi tham gia kháng chiến chống Pháp trong khi Trang Thế Hy, Sơn Nam tạm về Sài Gòn, thì Hoàng Văn Bổn tập kết ra Bắc và ngòi bút từng viết nên Vỡ đất (giải thưởng Cửu Long Giang 1952), tại viết tiếp Mùa mưa, Trên mảnh đất này, Có những lớp người… cùng là nhiều kịch bản phim khác. Sau những năm tháng hoạt động sôi nổi với tư cách là một chiến sĩ cầm bút, hình như Hoàng Văn Bổn cảm thấy nay là lúc có thể ngoái nhìn lại cả cuộc đời mình. Năm 1993, ông đã có Vũ trụ (Nhân tình thế thái), một cuốn sách có tính cách ghép mảng, gồm nhiều mẩu hồi ức ráp lại. Năm 1994, ông lại cho in Một ánh sao đêm, cuốn hồi ký trọn vẹn, ở đó tác giả kể lại nhiều kỷ niệm suốt từ ngày còn là chiến sĩ tiểu đoàn 307 đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến lần thứ hai, ông cùng nhiều anh em viết văn làm báo đến với những binh trạm trên đường 559. Thói quen của người viết tiểu thuyết quả đã giúp nhiều cho ngòi bút hồi ký của Hoàng Văn Bổn. Một ánh sao đêm có lối trình bày lại sự kiện mạch lạc, sáng rõ và bao quát được một thời gian dài của đời sống văn nghệ, nhất là những năm từ 1975 về trước. Đọc cuốn hồi ký có thể có người bảo đây toàn là chuyện mới xảy ra gần đây thôi, có gì mà phải “hồi cố” sớm thế! Song nếu nhớ rằng Hoàng Văn Bổn đã có một cuộc đời cầm bút liên tục trên bốn chục năm người ta có thể nghĩ khác. Lớp nhà văn chủ yếu trưởng thành từ sau 19f45 những Vũ Cao, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Khải, Giang Nam, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng… là một thế hệ cầm bút đặc biệt trong lịch sử văn học. Họ có những từng trải riêng, kinh nghiệm và cách tồn tại riêng. Nay phần lớn họ đang ở trước ngưỡng của của tuổi “thất thập cổ lai hy”. Ngoài các tác phẩm đã in, những gì họ trực tiếp kể lại trong các hồi ký nhất định là cần thiết cho tương lai.

 

 

62. Con mắt Tô Hoài bóng dáng Nguyễn Tuân

 

Khi được mời viết hồi ký, không ít nhà văn ở ta thích trả lời: Khi nào già tôi sẽ viết. Nhưng trong phần lớn trường hợp, họ không giữ được lời hứa. Hoặc giả, theo nghĩa đen, không đủ sức thực hiện ý định. Hoặc giả theo nghĩa rộng, già cả, cũ kỹ đi, chỉ sợ người ta quên, nên khi viết ra sức tô vẽ cho mình. Những thiên tự thuật kiểu đó đánh mất đi gần hết giá trị chúng có thể có.

Về phần mình, Tô Hoài quan niệm hơi khác. Ông viết hồi ký từ khi còn rất trẻ. Cuốn Cỏ dại ra đời năm 1944 khi ông mới 24 tuổi.

Bước sang tuổi năm mươi, ông công bố Tự truyện (in báo từ 1971, in thành sách 1978, tái bản 1985). Nay ở tuổi bảy mươi, ông lại có Cát bụi chân ai. Sống đến đâu, viết đến đó – dường như ông muốn nói vậy. Và các cuốn hồi ký của ông chỉ tự nó trần trần đối diện với bạn đọc, người viết ra nó không cần nhân danh tuổi già, nhân danh năm tháng, kinh nghiệm để… “bắt nạt” ai cả.

Một cách nhìn, mộtcách viết

Thông thường ở ta hồi ký được hiểu là những cuốn sách người viết tự kể về đời mình. Có nói về những người khác cũng là nhân tiện mà nói, nói tạt ngang cho đậm câu chuyện. Hồi ký của Đặng Thai Mai hay Những năm tháng ấy của Vũ Ngọc Phan. Từ bến sông Thuơng của Anh Thơ hay Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng v.v đều chung một kiểu viết như vậy. Cho tới Tự truyện Tô Hoài cũng không ra ngoài thông lệ vốn có.

Chỉ tới Cát bụi chân ai, nhà văn mới tạo cho thể tài một sự xô đẩy nho nhỏ. Khi còn trích in trên báo, người ta tưởng đây là loại hồi ký với nhiều chân dung liên tục xuất hiện, trong đó, mỗi người bạn từng đi lại thân quen với tác giả được ông dành riêng một chương: Nguyễn Bính, Nguyên Hồng, Xuân Diệu. Nhưng đọc cả quyển mới vỡ nhẽ ra Tô Hoài viết về Nguyễn Tuân là chính, chẳng qua học theo A. Malraux (trong Phản hồi ký) ông cũng gặp đâu viết đấy, nên ngòi bút mới đôi khi sa đà viết thêm về những người khác ít trang. Vẫn là hồi ký – chân dung, nhưng Cát bụi chân ai là bức tranh truyền thần khuôn mặt Nguyễn Tuân, như Tô Hoài được biết, một thứ Nguyễn Tuân nhìn gần ở khoảng cách rất gần, không bị tô vẽ, bị thiêng liêng hoá, có điều không vì thế mà mất đi vẻ khả ái và nhất là những nét đáng thông cảm.

Chỗ giống người của kẻ khác

Tuy luôn luôn không quên điểm xuyết đôi nét về con người Nguyễn Tuân giai đoạn tiền chiến, thậm chí đi ngược lại mãi về một thời rất xa, khi Nguyễn Tuân cùng một người bạn định trốn qua Xiêm theo đường Campuchia rồi bị bắt, nhưng trên nét lớn, Cát bụi chân ai là để nói về cuộc đời dấn thân của Nguyễn Tuân như Tô Hoài biết từ sau 1945 tới nay. Đường đời sự nghiệp khác nhau, tâm tính càng không giống nhau, vậy mà giữa hai người đã có chung bao kỷ niệm. Hồi kháng chiến chín năm ở chiến khu sống chung trong một cơ quan đầm ấm, thân mật. Lần theo bộ đội vượt sông đánh đồn. Những năm tháng sau hoà bình 1954, đời sống văn nghệ Hà Nội ngổn ngang bao chuyện. Dăm chuyến đi dài lên các tỉnh miền núi phía bắc những năm chống Mỹ hào hứng, lý thú cũng có, mà giá lạnh đơn độc cũng có. Ai người quen nghĩ Nguyễn Tuân khinh bạc, ích kỷ nghênh ngang tự thị sẽ tìm thấy ở đây, qua những chi tiết rất thật, những giây phút Nguyễn Tuân cũng rất nồng nàn quý trọng tình nghĩa, cũng chi chút trong từng việc nhỏ của đời sống gia đình và của sinh hoạt văn nghệ. Hơn thế nữa, Nguyễn Tuân cũng yếu đuối, cũng làm dáng, điệu bộ, và cũng biết sợ như bất cứ ai. Cái tài của Tô Hoài trong cuốn hồi ký này là ở chỗ phác ra rõ rệt những nét độc đáo trong tính cách Nguyễn Tuân – một câu tiêu biểu “Ô hay, người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ” (tr. 7) – song vẫn cho thấy tác giả Vang bóng một thời thực ra rất gần với chúng ta, với tất cả những phiền luỵ tầm thường, những hy vọng dang dở, những trái khoáy vô lý… của kiếp người. Đã bước trong đời thì hỡi ai kia, chân người rồi cũng lẫn trong cát bụi như mọi chúng sinh mà thôi, nhất định là thế, không thể nào khác, không phải vì thế chúng tôi xa lạ, ngược lại, cát bụi khiến chúng tôi thêm gần gũi với người biết mấy!

Niềm cảm khái cuối cùng

Nhưng dẫu sao, Cát bụi chân ai vẫn là một cuốn hồi ký. Dù bóng dáng của Nguyễn Tuân có trùm lên cả quyển sách, thì cạnh đấy, vẫn hiện lên mồn một cái bóng dáng chính của người viết, một Tô Hoài lịch lãm, ý nhị, bắt vở hết các bậc đàn anh, biết thóp đủ mọi chuyện, khinh bạc, đáo để, song cũng lại biết thiết tha với từng chi tiết trong cuộc sống hàng ngày, lại càng tha thiết trước một chén rượu quý, mấy câu tâm sự bâng quơ, những lá thư cảm động. Công bằng với Nguyễn Tuân cũng tức là Tô Hoài có được công bằng với giới văn nghệ. Dẫu sao, những người này cũng đã có mặt trong suốt cuộc đời tác giả, cùng ông chia sẻ vui buồn, và suy cho cùng, giá mà chẳng tốt hơn, thì họ cũng chẳng xấu hơn những người khác. Với sự chính xác của một thứ bộ nhớ điện tử, đầu óc Tô Hoài thường khi nhớ lại vặt vãnh đủ chuyện. Ngòi bút ông sau những khoáng đạt chơi vơi với những cảnh tượng hùng vĩ ở miền núi, lại thản nhiên, thủng thẳng, mà vẫn không kém sinh động, quay về dựng lại những phút vắng lặng trong câu chuyện mấy bạn tri kỷ, giữa một hàng quán xô bồ của chốn thị thành.

Còn như cảm hứng cuối cùng về cuộc đời? ở cuối chương Một chặng đường (in trong Tự truyện) Tô Hoài viết: “Trên sóng cát cuộc đời, mình đã từng sống cái kiếp phong trần, vào đâu nên đấy, của con phù du”. ở cuối Cát bụi chân ai lại vẫn cái giọng mệt mỏi và biết điều ấy “Tôi ngồi lại đây trông vào mịt mùng nhìn thấy xa lắc xa lơ một thời đã qua. Âu cũng là cái nhộn nhạo được khấy dộng chốc lát”. Tiếp đó là cái hình ảnh có sức khơi gợi: “Bãi tắm Cát Cò. Hai bên vách đá thẫm đen, không có bóng người. Con kỳ đà đủng đỉnh bò ra giữa đường hầm, bạnh mang, rướn chân nhìn quanh rồi lại nép vào mép những tảng đá… Vết chân người lẫn chân con kỳ đà in vân vân trên cát”. Một chút hư vô bàng bạc ở đây chỉ làm rõ thêm ấn tượng đã toát ra từ cả cuốn sách, ấy là dù hay dù dở thì tác giả cũng đã viết nó bằng sự thành thực và toàn bộ kinh nghiệm sống của mình, nên chi, nó đáng được đối xử một cách trân trọng và cả độ lượng nữa.

 

 

 

63. Những trang ghi chép chân tình

(Đọc Nhật ký của bộ trưởng tác giả Lê Văn Hiến, Nhà xuất bản Đà Nẵng 1995)

Trong đời sống hàng ngày, hai chữ nhật ký đã quá quen thuộc, người ta không thể hiểu sai về nó hoặc lúng túng khi phải nhận diện nó. Song, không rõ việc viết nhật ký ra sao, chỉ biết đến nay, ở ta quả thật các tập nhật ký được in ra còn quá ít ỏi, tới mức nhiều người chưa muốn xem nó là một thể tài văn học. Tại sao có sự thưa vắng đó? Để trả lời câu hỏi này, người ta phải nhìn vào hoàn cảnh cụ thể cùng cái tâm lý nảy sinh và kéo dài trong hoàn cảnh ấy. Từ sau 8-1945, đời sống đất nước luôn luôn trong thế sôi động; chiến tranh liên miên; con người long đong nay đây mai đó nhiều cán bộ chiến sĩ gia tài quy lại chỉ là một chiếc ba lô, có những phen mọi thứ khan hiếm, xin được tập giấy, kiếm được bình mực đã khó, những chuyện tưởng như nhỏ nhặt ấy thật dễ làm người ta ngần ngại. ấy là chưa kể viết xong, cất giữ ra sao, bảo quản thế nào, việc đâu có dễ. Vả chăng nói gì thì nói, viết nhật ký trước tiên cũng là một cách tự mình tâm sự với mình, tự mình chấp nhận cái đa đoan phiền phức của cuộc sống riêng tư và muốn nâng niu nó, bảo vệ nó. Trong khi ấy để thích ứng với hoàn cảnh xã hội “nước sôi lửa bỏng” mỗi con người lại đã thường xuyên giáo dục và bản thân cũng thấy cần xếp cái riêng tư của mình lại, tự nguyện gạt bớt những phiền phức của cái tôi để sống càng đơn giản càng tốt. Lâu rồi quen đi, tự nhiên cảm thấy công việc viết nhật ký là cả một chuyện xa xỉ, không mấy ai có gan tiếp tục đều đặn.

Chính trên cái nền chật hẹp ấy mà sự ra đời Nhật ký của một bộ trưởng là một điều đáng để ý. Cuốn sách đọc khá thú vị. Và trong chừng mực nào đó còn có thể xem đây là một gợi ý: Nó cho thấy khả năng đóng góp của mỗi người đối với đời sống mà nếu không sợ quá to tát, phải nói tới một cái gì như là trách nhiệm của mỗi cá nhân trước sự vận động sôi nổi của lịch sử; phải có nhiều người đứng ra ghi chép – ghi chép một cách trực tiếp trong thể nhật ký -thì các thế hệ tương lai mới có tài liệu để hình dung ra cuộc sống mà các thế hệ đi trước đã sống.

Về phương diện này mà xét, bộ sách gần 1000 trang khổ lớn (16×24 của Lê Văn Hiến là cả một kho tài liệu phong phú. Thời gian cuốn nhật ký bao quát khá dài, từ 19-12-1946 đến 6-5-1952. Trên cương vị một thành viên trọng yếu của bộ máy lãnh đạo đất nước, tác giả có dịp tham gia vào việc soạn thảo nhiều chính sách cũng như tự mình có mặt trong không ít sự kiện lớn lao của những ngày kháng chiến. Có điều, dù các sự kiện ấy từng được miêu tả đầy đủ trong các bộ sử lớn nhỏ – và ở đây Lê Văn Hiến cũng không nói gì khác – thì cái cách những người trong cuộc sống, bàn bạc, chuẩn bị cho các sự kiện ấy rồi cảm nhận chúng ra sao cũng gần như chưa ở đâu nói tới, và chỉ nhờ đọc các ghi chép loại như của Lê Văn Hiến người ta mới biết.

Hãy nói tới chuyện di chuyển. Cái hào hứng khi phải phóng những chiếc xe cũ nát, sáng ở Cao Bằng chiều ở Thái Nguyên, hôm sau đã phải quay về Vân Đình Hà Đông dự họp; cái bồn chồn, khi gặp một cơn lũ, phải dừng lại, trong khi bên kia sông, một hội nghị lớn đang chờ, hoặc những phen vừa bực mình vừa buồn cười, khi đi theo chiếc đầu máy xe lửa cổ lỗ lại đốt bằng củi tươi, ậm ạch mãi mới đi được vài cây số – đấy là những tình cảm khác nhau, mà chỉ con người kháng chiến mới có.

Một cuộc sống hấp dẫn, là một cuộc sống luôn gây ra cho người ta ngạc nhiên, chờ đợi. Thỉnh thoảng trong Nhật ký của một bộ trưởng, Lê Văn Hiến không  quên ghi lại những phút bỡ ngỡ mà một người như ông thể nghiệm khi lần đầu gặp gỡ núi rừng Việt Bắc: nào nỗi lạ lùng, khi nhìn thấy cây thuốc phiện; nào một thoáng rờn rợn, khi qua một đoạn đường cheo leo, đã có lắm người thiệt mạng; nào nỗi xao xuyến khi qua một đoạn đèo khác – lần này là đèo Lê -a ở Cao Bằng – nghe nói ở đây có tuyết mà mình chưa được nhìn thấy bao giờ. Một buổi sớm mùa đông làm việc ngoài nắng đối với tác giả, đôi khi cũng mang lại ý vị riêng nói chi những chuyến phóng ngựa băng rừng, những lần xuôi thuyền sông lớn. Nhưng cái điều khiến tác giả chú ý hơn cả và được ông ghi vào nhật ký nhiều hơn cả, là những tình tiết éo le trong mối quan hệ giữa người và người, những rắc rối nảy sinh trong công việc. Đọc qua người ta có thể ngạc nhiên sao trong nhật ký của mình, một bộ trưởng bộ tài chính thỉnh thoảng lại nhắc đến những kho muối và việc xuất kho vài cân muối. Nhưng kháng chiến là thế, kháng chiến có chuyện hành quân vây đồn, tiêu diệt căn cứ địch, nhưng còn có chuyện đồng tiền bát gạo, chuyện in thêm tiền mới, chuyện đấu tranh chống vòng vây kinh tế của địch. Liệu cách nào giúp đỡ thêm đơn vị nọ, đơn vị kia đang gặp khó khăn? Nơi nào đang tiêu pha lộn xộn? Nơi nào lỏng tay quản lý, để công quỹ bị biển thủ? Bấy nhiêu câu hỏi luôn luôn trăn trở trong đầu óc ông bộ trưởng và mỗi khi làm việc quá sức con người thật dễ cảm thấy mệt mỏi. Nhưng công việc nào rồi cũng có lúc xong, khoan khoái biết mấy là sau những đêm chí đầu vào đống công văn, sáng sớm hôm sau, được vác cuốc ra chăm sóc đám rau bên nhà, kế đó là nỗi hoan hỉ được mang ít cân rau tươi mới hái cùng vài cân cá khô, mấy chai nước mắm, tới biếu các bộ trưởng khác. Rồi niềm vui khi được tin một chị trong cơ quan sinh thêm một cháu nhỏ. Rồi một thoáng buồn khi thấy anh em nhận được thư gia đình, còn mình thì mấy tháng nay quê nhà bặt vô âm tín. Với tư cách những trang ghi chép tự nhiên (không được tu bổ cắt xén trước khi mang in) Nhật ký của một bộ trưởng có một đường dây tình cảm quán xuyến, đó là những quan tâm, băn khoăn, chờ đợi của tác giả với người bạn đời của mình. Nhưng những đoạn tình cảm riêng tư ấy không lạc lõng mà hoà hợp với giọng điệu chung của cuốn nhật ký và lại cho thấy đầy đủ hơn hình ảnh của người cán bộ kháng chiến mà tác giả muốn trình bày và chúng ta muốn biết.

Cũng nên nói thêm rằng do đặc điểm riêng của nó, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bấy giờ là một cuộc chiến đấu có văn hoá. Bên cạnh cái ào ạt, cái bột phát, do đó là cái lộn xộn không tránh khỏi của một cuộc chiến tranh, thì nhiều nền nếp vốn có trong  những năm tháng thanh bình vẫn còn duy trì ảnh hưởng trong cuộc sống mọi người, và điều này cũng thấy khá rõ qua những trang Nhật ký của một bộ truởng. Cùng với tác giả, ta biết rằng giữa núi rừng Việt Bắc, báo chí vẫn ra đều đều, nhiều đêm kịch vẫn đông nghịt người,  sách vở vẫn được truyền tay và những giá trị văn hoá cổ truyền vẫn có mặt trong đời sống hàng ngày. “Không lúc nào như lúc này, ai nấy đều khoái Kiều”. Xong một buổi hội nghị, trước một cảnh đêm trăng, mỗi người đều cất giọng ngâm Kiều. Chẳng những thế, những lớp huấn luyện chuyên môn vẫn được mở, các chuyên gia được tôn trọng và ở một đoạn nhật ký, tác giả còn kể rằng ông không quên dành thời gian, để thông qua những quyển sách bằng tiếng Pháp, tìm hiểu về chính sách tiền tệ ở các nước khác và khoa học tài chính nói chung. Tóm lại, là một cách sống khiêm nhường, thuần hậu, cầu tiến, ham học, xa lạ với mọi kiêu căng càn rỡ. Một cuộc sống tinh thần lành mạnh, nó tương phản với đời sống vật chất kham khổ, nhưng chính nó lại khiến cho con người trở thành những nhân cách đáng vì nể. Cho tới ngày hôm nay, cuộc kháng chiến chống Pháp sở dĩ còn giữ được ánh hào quang thiêng liêng, một phần là vì đã đi được tới chiến thắng bằng nỗ lực và sự tận tuỵ của những con người như thế.

 

 

64. Mỗi số phận chứa một phần lịch sử

 

Nửa đêm sực tỉnh của Lưu Trọng Lư và Nhớ nghĩ chiều hôm của Đào Duy Anh, Cát bụi chân ai của Tô Hoài và Một mảnh tình riêng của Sơn Nam, Hồi ký Nguyễn Hiến Lê Hồi ký Trần Huy Liệu… đây đó, chúng ta đã được nghe giới thiệu về một số tập hồi ký của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nói chung là của các nhà hoạt động văn hoá mà cuộc đời và sự nghiệp gắn liền với sinh hoạt tinh thần của xã hội ta từ đầu thế kỷ XX tới nay.

Nhưng đó mới chỉ là một bộ phận nhỏ trong các hồi ký đã xuất bản.

Trong thực tế, còn phải nói tới hai loại hồi ký khác.

1. Hồi ký của các nhà hoạt động chính trị, quân sự từng giữ nhiều trọng trách trong guồng máy điều hành đất nước.

2. Hồi ký của những người bình thường có tham gia công tác xã hội nhưng chỉ ở những cương vị rất khiêm tốn, thậm chí, có khi chỉ loanh quanh chuyện kiếm sống, và nuôi dạy con gái, song do chỗ biết khai thác hợp lý, những cuộc đời được kể lại ở đấy vẫn mang dấu ấn thời đại sâu sắc.

Như người ta thường nói đùa, nhiều người Mỹ cả đời chỉ chăm chăm ra tranh cử Thượng viện, Hạ viện và nếu trở thành tổng thống thì càng hay vì tuy là tổng thống 8 năm là cùng, nhưng với họ, đấy chính là thời gian thu thập tài liệu để viết nên những quyển hồi ký mà lúc in ra thường chạy như tôm tươi và tiền tác quyền đủ cho tác giả sống ung dung cho đến lúc chết.

Nghiêm chỉnh hơn, người ta nhắc đến những tập hồi ký nổi tiếng của Churchill, của De Gaulle, của Khrouchev, mà sau khi tồn tại như sách bán chạy một thời, lại trở thành đối tượng để các nhà sử học vục đầu nghiên cứu, mổ xẻ.

Gần đây hơn, để đánh dấu thời kỳ chiến tranh lạnh kết thúc, có các hồi ký B.Enxin, A.Sobchac, T.Gipkov… (một số đã được dịch ra tiếng Việt). Không phải đợi đến khi tác giả kết thúc sự nghiệp mà thời nay các hồi ký được viết sớm hơn, người ta có thể vừa tiếp tục sống và làm việc vừa viết, sống đến đâu viết đến đó, các cuốn hồi ký không được thật chín như đáng lẽ nó phải có, song lại được cái nhanh nhạy trả lời tức thì cho những điều nhiều người quan tâm.

Không phải chỉ ở xứ người, hồi ký được ưu ái vậy, mà ngay ở xứ ta dư luận cũng từng săn đón chờ đợi những cuốn sách thuộc thể tài này.

Vào khoảng đầu những năm 60, bạn đọc Hà Nội và ở miền bắc những năm đó nói chung, rộ lên tìm đọc đợt hồi ký do các chiến sĩ cách mạng lâu năm như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt… kể và nhiều nhà văn, nhà báo ghi. Tiếp đó là đợt hồi ký viết về Điện Biên Phủ. Ngay trong những năm chống Mỹ bận rộn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn cho công bố hồi ức của mình về những hoạt động đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Từ nhân dân mà ra) về những ngày trứng nước của chính quyền mới, ngay sau 1945 (Những năm tháng không thể nào quên). Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhiều tướng lĩnh quân sự lại đã dần dần, mỗi người vào lúc thuận lợi nhất, bắt tay vào việc tổng kết đời mình hoặc kể lại một ít sự kiện quan trọng nhất mình có tham dự qua những cuốn hồi ký. Đó là, chẳng hạn, Đi theo con đường của Bác của Văn Tiến Dũng, Những năm tháng quyết định của Hoàng Văn Thái, Từ Đông Quan đến Điện Biên Phủ của Lê Trọng Tấn, cùng nhiều hồi ức của Hoàng Cầm, Đàm Văn Nguỵ, Nguyễn Tư Cương, Hoàng Văn Khánh, Lê Quang Hoà, Nguyễn Chuông v.v… và v.v…

Cũng trong vòng mười năm lại đây, nhiều nhà hoạt động chính trị nổi tiếng ở ta đã chia sẻ với bạn đọc những kỷ niệm vui buồn của chính đời mình. ở ô mục lục của Thư viện quốc gia, chúng tôi ghi được một số cuốn mới xuất bản những năm chín mươi như sau:

– Trần Hữu Dực – Bước qua đầu thù (hai tập)

– Lê Thanh Nghị – Trọn một cuộc đời (hai tập)

– Trương Thị Mỹ – Người con gái xóm thợ

– Nguyễn Thị Thập – Từ đất Tiền Giang

– Vũ Quốc Uy – Bình minh trên sông Cấm

– Mai Văn Bộ – Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật

Trong năm 1995, nhiều bạn đọc lại có dịp đọc Hồi ký Vũ Đình Hoè, hoặc Những mẩu chuyện đời tôi của Mai Chí Thọ.

Tin rằng trong thời gian tới, các hồi ký loại này còn được tiếp tục ra đời, bởi nếu được viết nghiêm chỉnh chúng là những chứng tích sống động của lịch sử và rất có ích cho bạn đọc.

Tuy ở mỗi quốc gia, tình hình có khác, nhưng nhìn chung phải thừa nhận nay là lúc, trên toàn thế giới, xu hướng dân chủ thắng thế, thời đại dân chủ mở ra triển vọng sống và tồn tại cho mỗi người bình thường, nên mặc dù, có khi không trực tiếp tham gia vào các sự kiện lớn của đất nước, và không phải những nhân vật quan trọng song nhiều người vẫn cảm thấy cuộc đời của mình có gì đó đáng ghi lại, và trong khi thực hiện các nhu cầu riêng này, người ta thành tâm tin rằng người khác, đọc hồi ký hoặc tự truyện của mình sẽ nhận ra cuộc đời họ, và rộng hơn thấy cả bóng dáng lịch sử.

Loại hồi ký của những người bình thường xuất hiện từ lý do bình dị mà sâu sắc như thế.

Không ở đâu xa, mà ngay ở ta, có một hồi, phong trào viết kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội, đã lôi cuốn được nhiều cán bộ chiến sĩ tham dự. Còn đến thời gian gần đây, các tác giả loại hồi ký này mở rộng tới nhiều người thuộc những ngành nghề khác hẳn nhau. Bản thân tên gọi các cuốn sách đã xác định điều đó.

– Kỳ Thu – Khép lại quá khứ đau thương

– Trần Thị Hương – Bất hạnh không của riêng ai (Tự truyện)

– Đỗ Tuyết Mai – Tuổi năm mươi nhìn lại

– Phạm Thị Trinh – Những chặng đường của người mẹ

– Đặng Nguyệt Nga – Cuộn len

– Đặng Thị Hạnh – Bà và cháu

Sẽ không có gì lạ, nếu như ai đó nhận xét, loại hồi ký này đang là hiện tượng hiếm hoi. Giữa thời buổi các phương tiện nghe nhìn ồ ạt phát triển, các chương trình phim truyền hình nhiều tập, cùng chương trình nhạc pop, nhạc rốc… lúc nào cũng chỉ chờ người ta ấn nút để xuất hiện trên màn ảnh nhỏ và làm đầy cuộc sống gia đình – vâng, trong hoàn cảnh ấy mà bảo những người bình thường (không phải người chuyên ngành nghề viết lách; cũng không phải nhân vật từng có cương vị quan trọng, hay được các cơ quan thúc đẩy và hỗ trợ) ngồi trước trang giấy, tự kể lại đời mình – quả là chuyện xa vời ! Song bởi vậy, một ít cuốn hồi ký đã in ra thật đáng trân trọng và những ai đã ướm thử ngòi bút trong công việc này, vẫn nên dũng cảm làm tiếp.

 

 

 

 

 


[1] Đúng ra từ khi Nguyễn Công Trứ mất (1858) đến lúc Lưu Trọng Lư viết bài báo này (1939) khoảng cách thời gian chỉ mới hơn tám chục năm (V.T.N)

[2] Sau này, khi trở thành Quốc ca, những lời này đã được sửa lại

[3] Để tôn trọng tác giả và giữ nguyên màu sắc lịch sử của tác phẩm, chúng tôi giữ nguyên những chữ như Annam (mà không thay bằng Việt Nam). Song các lỗi chính tả thì đã chữa, để phù hợp với chính tả tiếng Việt hiện hành

[4] Văn bản trích từ tuần báo Chủ nhật, số ra 16/11/1940 (Chủ Nhật là cơ quan của Tự lực Văn đoàn ra đời sau khi Ngày Nay bị đóng cửa nhưng cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn).

[5] Lời thơ Thế Lữ

ege

Bình luận về bài viết này